Việt Nam có rất nhiều ưu thế để phát triển ngành vận tải biển như đường bờ biển dài, người dân từ nhiều đời sống rất gần gũi với biển, dựa vào biển và có khả năng đi biển.
Vận tải biển chưa 'ra biển'.
Chỉ tiếc rằng lâu nay do các chính sách chưa phù hợp, sự quan tâm chưa đúng mức, đầu tư ồ ạt nhưng không có chiều sâu... đã khiến ngành vận tải biển Việt Nam èo uột.
Bức tranh u ám
Ngành vận tải biển kém phát triển trước hết do nghề đi biển chưa được chú trọng. Những người làm thuê trên tàu vẫn có mức lương quá thấp, thậm chí thấp hơn lương của một thợ hồ trong khi để xuống được tàu họ phải có hàng chục loại bằng cấp, chứng chỉ mà mỗi bằng cấp, chứng chỉ đó có giá khá nhiều tiền, rồi còn phải trả phí môi giới hay phí cho những nhân viên điều hành ở các công ty chủ tàu.
Chưa kể là nhiều thuyền viên đi tàu còn bị chậm trả lương, quỵt lương thường xuyên, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài, không chỉ các công ty chủ tàu Việt Nam, mà cả các công ty chủ tàu quốc tế.
Trong khi đi biển là nghề hiểm nguy bậc nhất, họ lại không được sự bảo trợ cần thiết như đồng nghiệp ở các nước khác như Indonesia, Myanmar, Philippines... Đó là chưa so sánh với những nước Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Âu có mức lương còn cao hơn nhiều lần và thuyền viên họ được ITF bảo trợ và khi có những sự cố xảy ra với thuyền viên thì được ITF trợ giúp ngay.
Việt Nam đang xuất khá nhiều loại hàng hóa và các loại hàng hóa này thường dùng tàu rời để vận chuyển như gạo, cát, đá, gỗ dăm, mì lát, clinker, xi măng... trong khi đó Việt Nam cũng nhập về rất nhiều loại máy móc, nguyên vật liệu chế tạo, các sản phẩm gia dụng...
Tuy nhiên, các sản phẩm như cát, đá, clinker thì hầu hết được chở bằng các loại tàu lớn 40.000 - 50.000 tấn, Việt Nam lại ít tàu có cỡ lớn như thế nên phần nhiều rơi vào tay các tàu nước ngoài. Gỗ dăm, mì lát chủ yếu xuất qua Trung Quốc, các tàu của Trung Quốc khi chở sắt thép từ Trung Quốc về Việt Nam cần hàng để quay trở lại Trung Quốc để lấy hàng đi tiếp nên họ có giá rất mềm và các tàu Việt Nam khó mà cạnh tranh.
Xi măng và gạo thường dùng tàu Việt Nam nhiều, song đối với các loại hàng này cũng có nhiều nguy cơ cho tàu như chạy qua vùng cướp biển Philippines, chủ hàng dỡ hàng rất chậm trong khi các chi phí phát sinh phạt tàu thường không được thanh toán đầy đủ.
Thời gian gần đây, Việt Nam cũng nhập khá nhiều than từ các nước, nhiều chủ tàu đã chuyển hướng đầu tư các loại tàu để chở than cho các nhà máy nhiệt điện đang bắt đầu hoạt động. Tuy nhiên, do vẫn còn nhiều bất cập trong chuyện nhập khẩu than nên các tàu này vẫn chưa phát huy hiệu quả và hiện họ vẫn đang tìm đủ các loại hàng khác để làm.
Lượng hàng hóa xuất nhập khẩu qua các cảng Việt Nam rất lớn, tuy nhiên hơn 90% trong số này đang nằm trong tay các doanh nghiệp nước ngoài. Thực trạng phát triển đội tàu Việt Nam nhưng chủ yếu là các tàu rời, có tính kinh tế thấp, khó tìm nguồn hàng ổn định.
Do đó việc tàu Việt Nam chạy hàng Việt Nam là khá ít, nếu có thì giá trị hàng hóa không cao, hàng xuất thô là chính. Trong khi đó hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là những hàng hóa có giá trị lớn, được cho vào container và được các tàu nước ngoài vận chuyển.
Thay vì khai thác hàng hóa từ Việt Nam đi, nhiều tàu Việt Nam đã vươn ra khai thác ở các thị trường Ấn Độ, Maldives, Myanmar, Indonesia... Các tuyến này lượng hàng ổn định hơn, giá cước cao hơn nhưng lại phát sinh những vấn đề khác như thời gian dỡ hàng chậm, chủ hàng không trả tiền phạt tàu, chủ hàng thường xuyên tổ chức lừa chủ tàu...
Vận tải biển nội địa lâu nay dù có rất nhiều hàng hóa và nhà nước đã có những động tác bảo hộ cho vận tải biển nội địa nhưng lại phát sinh đội tàu pha sông biển được phép chạy bắc - nam và những đội tàu này với chi phí rẻ hơn, quản lý đơn giản hơn, đăng ký nhanh chóng hơn, thuyền viên tiêu chuẩn thấp hơn đã giành phần lớn lượng hàng hóa, làm cho giá cước giảm xuống nên các tàu vận tải biển nội địa các cấp 2, 3 tương đối khó cạnh tranh.
Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp vận tải biển thuộc nhà nước và cổ phần có vốn của nhà nước nắm giữ đã và đang thua lỗ kéo dài nhiều năm liền và đã nhường hầu hết lượng hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam vào tay các doanh nghiệp nước ngoài.
Các doanh nghiệp tư nhân thì phần nhiều là những người có quan hệ với ngân hàng, các tổ chức tài chính nên có được quyền ưu tiên thực hiện các hợp đồng thuê mua tài chính nhiều con tàu. Một thời họ đóng tàu, mua tàu để bán lại kiếm lời chứ không chú trọng vào mục tiêu khai thác tàu, nên các con tàu của họ thường chất lượng kém, chi phí chạy tàu cao. Hơn nữa, nếu tổ chức khai thác thì họ cũng không có đủ trình độ cũng như khả năng tài chính để khai thác thực sự có hiệu quả.
Chính sách ngoại tệ của Việt Nam làm ảnh hưởng rất lớn đến việc giao thương hàng hải. Ví dụ một doanh nghiệp cần chuyển tiền để trả tiền cước phí vận chuyển cho tàu trung bình phải mất thời gian chuẩn bị hồ sơ 2 ngày, rồi thêm 1 ngày ngân hàng xử lý thủ tục để chuyển tiền.
Trong khi đó, các doanh nghiệp ở các nước hoặc vùng lãnh thổ xung quanh như Hong Kong, Đài Loan, Thái Lan, Campuchia, Singapore, nhất là các doanh nghiệp ở Hong Kong và Singapore, chỉ mất chưa tới 5 phút để chuyển tiền hàng trăm ngàn USD.
Trong vận tải quốc tế, Việt Nam nhiều tàu nhỏ, chất lượng khá kém do đã được khai thác nhiều năm, bảo dưỡng kém, thị trường hàng hóa kén chọn nên không có nhiều loại hàng cho các tàu của Việt Nam vận chuyển, chủ yếu là các loại hàng hóa thô, giá trị ít.
Khi lượng hàng hóa đã ít mà công suất tàu loại chất lượng kém như thế này quá nhiều thì nảy sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, có những tuyến hàng chỉ có tàu Việt Nam làm là chính nhưng các chủ tàu Việt Nam lại không đoàn kết với nhau mà lại tìm mọi cách giảm giá để giành hợp đồng.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nhiều nơi như Singapore, Myanmar, Bangladesh, Philippines, Ấn Độ... nắm được tâm lý này của các doanh nghiệp Việt Nam nên họ thường o ép các điều khoản rất chặt chẽ làm cho phần thiệt thòi luôn thuộc về các doanh nghiệp Việt Nam.
Le lói hướng ra
Tuy bức tranh khá u tối của ngành vận tải biển vẫn liên tục hiện lên trong những năm gần đây song vài năm trở lại đây cũng đã có những doanh nghiệp vận tải biển bắt đầu khởi sắc, có lãi, kể cả một số công ty trên sàn hoặc cả các công ty tư nhân nhỏ.
Có một số công ty đã mua những con tàu lớn cỡ 20.000 - 50.000 tấn để phù hợp hơn với yêu cầu vận chuyển hàng rời là những loại hàng có số lượng lớn trên thị trường, nhất là các loại hàng như than nhập khẩu của Việt Nam, than hay các loại quặng chở sang Trung Quốc.
Đã có doanh nghiệp xác định thị trường của họ là các loại hàng lỏng, họ mua nhiều tàu chở dầu để khai thác thị trường còn rất tiềm năng này. Tàu của họ đi khắp các nơi trên thế giới và có lãi.
Một số công ty vận tải nội địa, thay vì đóng mới hay mua tàu biển, họ đóng các tàu pha sông biển, chở hàng rời và chở container. Điểm lợi ích của loại tàu này là chi phí ít, dễ kiếm thuyền viên hơn, chi phí khai thác cũng nhẹ hơn các loại tàu biển các cấp, sự kiểm soát của các cơ quan chức năng cũng không quá nghiêm khắc như các loại tàu biển từ cấp 3 trở lên.
Trước thực trạng trên, cần phải có sự chăm lo, ưu đãi, giúp đỡ cho đội ngũ thuyền viên - những người đang ngày đêm lênh đênh trên biển khơi. Việc gia nhập ITF là rất cần thiết để bảo vệ họ tránh bị những đối xử bất công.
Những quy định pháp luật cần rõ ràng hơn và phù hợp với thực tế hơn nhằm tránh gây những sự cố đáng tiếc cho tàu, nhất là các yêu cầu như các loại giấy tờ như hóa đơn vận chuyển, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng thương mại tất cả các bảng gốc phải có trên tàu.
Cụ thể, tòa án, các cơ quan chức năng cần thiết thực hơn trong việc thực thi các vụ kiện tụng trong ngành hàng hải, có cách để giám sát thi hành án, để bớt đi tình trạng những doanh nghiệp gây ra nhiều nợ nần rồi bỏ trốn; khuyến khích và tạo điều kiện cạnh tranh sòng phẳng, giữa các tàu với nhau không nên bằng mọi giá phải cạnh tranh quyết liệt mà chia sẻ thị phần, hợp tác cùng có lợi.
Các doanh nghiệp vận tải biển cần nghiêm túc xác định mục đích kinh doanh, nhìn xa trông rộng, thay vì đóng mới hoặc mua tàu mới để chạy rông thì tiếp cận các dự án, các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu lớn có nguồn hàng nhiều để ký hợp đồng và thực hiện dự án lâu dài. Nếu tránh được kiểu làm ăn chụp giật, tranh giành mối hàng, nợ lương thuyền viên và tuân thủ luật pháp nghiêm túc... thì mới có thể có những doanh nghiệp lớn mạnh, có đủ năng lực cạnh tranh quốc tế.
(VNF) - Tại Quảng Ngãi, việc đầu tư cho truyền thông, đưa chính sách đến gần hơn với người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đang dần trở thành “đòn bẩy mềm”, giúp chính sách đi vào cuộc sống và tạo chuyển biến thực chất trong công cuộc giảm nghèo.
(VNF) - Không bắt đầu từ những dự án lớn hay khoản đầu tư hàng chục tỷ đồng, hành trình giảm nghèo bền vững ở miền Tây Quảng Trị đang được khơi mở từ những lớp học xóa mù chữ dành cho phụ nữ dân tộc thiểu số. Ở đó, tri thức trở thành “điểm tựa mềm” nhưng mang tính quyết định, giúp người dân tiếp cận chính sách, vận dụng hỗ trợ và từng bước thoát nghèo một cách bền vững.
(VNF) - Ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số được đặt ra cho giai đoạn tới, bài toán nguồn vốn đang trở thành vấn đề sống còn. Khi hệ thống ngân hàng đã tiệm cận giới hạn mở rộng tín dụng, việc phát triển mạnh mẽ thị trường vốn - đặc biệt là thị trường chứng khoán - được xem là chìa khóa để tạo dư địa tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.
(VNF) - Thiếu thông tin không chỉ làm hạn chế cơ hội phát triển mà còn là rào cản lớn khiến người nghèo khó có thể thoát nghèo một cách bền vững. Vì vậy, trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, bên cạnh việc hỗ trợ về sinh kế, tín dụng, y tế hay giáo dục, một yếu tố ngày càng được khẳng định có vai trò nền tảng, đó là giảm nghèo thông tin.
(VNF) - Những đồng vốn nhỏ, được phân bổ từ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025, đang từng bước trở thành “bệ phóng” giúp người nghèo Hà Tĩnh chuyển từ tư duy trông chờ hỗ trợ sang chủ động tổ chức sản xuất, nâng thu nhập và hình thành sinh kế ổn định.
(VNF) - Từ những lớp học nghề đỏ đèn đến tận đêm khuya, đến dòng công nhân trẻ nối nhau vào Khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh đang chứng kiến cuộc “lột xác” lớn nhất 10 năm: chuyển từ lao động phổ thông sang lực lượng lao động kỹ thuật. Một hành trình bắt đầu từ nông thôn, nhưng đang làm thay đổi cả bản đồ việc làm của tỉnh.
(VNF) - PGS.TS Nguyễn Hữu Huân - Trưởng Bộ môn Thị trường Tài chính (ĐH Kinh tế TP.HCM) cho rằng, mục tiêu tăng trưởng GDP từ 10% trở lên trong năm 2026 không phải là quá sức với Việt Nam. Tuy nhiên, khả năng hiện thực hóa mục tiêu này phụ thuộc quyết định vào chất lượng triển khai cải cách, từ chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tháo gỡ điểm nghẽn thể chế đến năng lực thực thi chính sách ở cấp vĩ mô và địa phương.
(VNF) - Được ví như một "Việt Nam thu nhỏ" với địa hình phức tạp và quy mô dân số đông, Thanh Hóa bước vào giai đoạn 2021 – 2025 với bộn bề thách thức trong việc đảm bảo an sinh xã hội tại khu vực miền núi "phên dậu". Thế nhưng, bằng tư duy quản trị quyết liệt và hiệu quả thực tế từ dòng vốn của 3 Chương trình Mục tiêu quốc gia, địa phương này đang tạo nên một kỳ tích giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.
(VNF) - Hướng tới xây dựng một cơ chế thị trường vốn dành riêng cho cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo, Việt Nam đang trong quá trình chuẩn bị để hình thành sàn giao dịch chứng khoán chuyên biệt cho doanh nghiệp khởi nghiệp - một bước đi được đánh giá là quan trọng nhằm hoàn thiện chu trình đầu tư mạo hiểm từ nguồn vốn đầu vào đến điểm thoái vốn (exit) cho nhà đầu tư.
(VNF) - Đề cập tới mối quan hệ giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty luật ANVI cho rằng, hiện nay chúng ta đang yêu cầu các hộ kinh doanh quy mô lớn phải thực hiện sổ sách, kê khai thuế phức tạp như doanh nghiệp. Nếu đã phải làm y hệt như vậy thì chuyển thành doanh nghiệp còn hơn. Do đó, cần sửa luật để tạo ra một mô hình trung gian, tạm gọi là “doanh nghiệp hộ kinh doanh”.
(VNF) - Năm 2025, giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, Việt Nam nổi lên như điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI và quỹ đầu tư toàn cầu. Không chỉ duy trì đà tăng trưởng FDI mạnh mẽ, Việt Nam còn trở thành "cường quốc ASEAN" trong mắt nhà đầu tư quốc tế.
(VNF) - Theo đại biểu Tạ Đình Thi, việc ban hành cơ chế, chính sách đặc thù cho Thủ đô cần tập trung vào các lĩnh vực chiến lược nơi Hà Nội có lợi thế, nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế và tạo động lực phát triển bền vững, lan tỏa.
(VNF) - Ông Nguyễn Hồ Ngọc - Giám đốc đào tạo ATC Academy cho rằng, "mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ nặng tay với nhóm biên lợi nhuận thấp và nhẹ tay với nhóm biên lợi nhuận cao".
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Tiêu dùng của người dân chiếm gần 64% GDP đang suy yếu, kéo theo niềm tin giảm mạnh. Trong bối cảnh xuất khẩu bấp bênh, đầu tư công chậm giải ngân, các chuyên gia cảnh báo: muốn đạt tăng trưởng 10%, Việt Nam phải khơi thông túi tiền và củng cố niềm tin tiêu dùng của dân.
(VNF) - Theo PGS.TS Trần Đình Thiên, tăng trưởng 10% trở lên theo Nghị quyết của Quốc hội hay một con số khác cũng được nhưng cần phải thay đổi, đừng làm theo cách cũ.
(VNF) - Sau một năm triển khai, VIFTA đã bước đầu phát huy hiệu quả, song quá trình tận dụng ưu đãi cho thấy các ngành hàng vừa có thuận lợi, vừa phát sinh vướng mắc, đòi hỏi giải pháp phù hợp để khai thác hiệu quả hơn trong thời gian tới.
(VNF) - Theo các chuyên gia, muốn đạt tăng trưởng 10%/năm, Việt Nam cần một hệ thống tín dụng tăng tốc chưa từng có, với quy mô tín dụng dự kiến tăng gấp đôi trong 5 năm.
(VNF) - Theo TS Lê Xuân Nghĩa, nói người dân tích trữ vàng gây hại cho nền kinh tế là thiếu cơ sở. Đồng thời, không thể yêu cầu người dân “đừng mua vàng” bằng những khẩu hiệu suông.
(VNF) - TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, hiện còn quá nhiều đầu mối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vai trò chưa tương xứng, nói là chủ đạo nhưng chưa cho nhóm này phát triển. Do đó, ông Cung kiến nghị tái cơ cấu, chỉ cần dưới 100 nhưng quy mô tăng gấp 10 – 15 lần.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Tại Quảng Ngãi, việc đầu tư cho truyền thông, đưa chính sách đến gần hơn với người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đang dần trở thành “đòn bẩy mềm”, giúp chính sách đi vào cuộc sống và tạo chuyển biến thực chất trong công cuộc giảm nghèo.
(VNF) - Cuối năm – mùa cam chín rộ ở Hà Tĩnh, những vườn cam trên nhiều vùng đồi như Thượng Lộc, Hương Khê, Vũ Quang, Mai Hoa… đang tạo nên những khoảnh khắc rộn ràng của thu hoạch. Đây là thời điểm chứng kiến sự hội tụ của nắng gió, đất đỏ và bàn tay nông dân, tạo ra những cây cam “siêu quả” độc đáo, không chỉ là đặc sản vùng miền mà còn là sản phẩm của mô hình liên kết nông nghiệp, góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo tại Hà Tĩnh trong những năm qua.