Nguồn lực và cơ hội đổi mới mô hình tăng trưởng
(VNF) - Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2030 đã đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm. Đến nay, nước ta đã thực hiện được gần 4 năm trong chặng đường kế hoạch 5 năm đầu tiên của Chiến lược. Mặc dù thời gian gần đây đạt được nhiều kết quả khả quan nhưng với rất nhiều khó khăn, thách thức liên tiếp, dồn dập, nhấ
Đáng chú ý, trong số đó có một số mục tiêu liên quan đến chất lượng tăng trưởng như tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hàng năm đạt khoảng 4,8% trong khi mục tiêu là trên 6,5% hoặc đóng góp của tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng chỉ có thể ước khoảng 42% trung bình giai đoạn trong khi mục tiêu đặt ra ở mức khoảng 45%.
Thực trạng trên bắt nguồn từ cả những yếu tố khách quan và chủ quan. Yếu tố khách quan là bối cảnh kinh tế thế giới không thuận lợi, nhiều khó khăn, thách thức, tăng trưởng các nước suy giảm dẫn đến cầu thế giới giảm mạnh, lạm phát tăng cao làm ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều động lực tăng trưởng của Việt Nam, bao gồm xuất khẩu và đầu tư, từ đó kéo theo tiêu dùng.
Bên cạnh đó, những nguyên nhân chủ quan bao gồm việc thiếu những cơ chế, chính sách mới, những giải pháp mang tính đột phá để khai thác được các cơ hội mới, tạo lập các động lực tăng trưởng mới.
Việc khó đạt được các mục tiêu về chất lượng tăng trưởng không chỉ đặt ra thách thức lớn trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng giai đoạn này mà có thể còn ảnh hưởng cả đến khả năng tăng tốc và duy trì tăng trưởng cao trong giai đoạn kế hoạch tiếp theo.
Trước bối cảnh đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần tạo bước chuyển biến thực chất về chất lượng tăng trưởng, tạo nhiều động lực tăng trưởng dựa vào ứng dụng tiến bộ công nghệ mới, công nghệ số, đổi mới sáng tạo, lao động chất lượng cao, phát triển các ngành mới nổi, các mô hình kinh tế mới, mang lại giá trị gia tăng cao.
Để đạt được mục tiêu chiến lược đặt ra, năm 2025 và giai đoạn kế hoạch 5 năm tiếp theo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định khả năng bứt tốc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của nền kinh tế. Đây cũng là thời điểm cần tập trung ban hành những cơ chế, chính sách vượt trội, có tính sáng tạo cao, kích hoạt, huy động và khơi thông được các nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế, tạo động lực tăng trưởng đột phá.
Các giải pháp đột phá nâng cao chất lượng tăng trưởng cần tạo ra mức tăng vượt trội, bứt phá mạnh mẽ. Giải pháp đột phá có thể có được là do áp dụng các cách tiếp cận về phát triển mới so với cách tiếp cận truyền thống hoặc giải pháp có tính sáng tạo vượt bậc hoặc những giải pháp gỡ bỏ những nút thắt cơ bản, tạo ra những thay đổi lớn, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân.
Dưới khía cạnh kinh tế, theo lý thuyết tăng trưởng Schumpeter mới (World bank, 2024) các giải pháp đột phá, tạo sự chuyển biến mạnh về năng suất có thể từ những công nghệ, mô hình mới. Bài viết này tập trung phân tích một số nỗ lực hình thành cơ chế, chính sách mới cần được tập trung thúc đẩy.
Một số mô hình, cơ chế đặc thù khơi thông nguồn lực
Hiện nay, Chính phủ, các cơ quan bộ ngành và địa phương đang chủ động, tích cực xây dựng để tiến tới triển khai thực hiện nhiều mô hình, cơ chế, chính sách mới, mang tính đột phá, để khơi thông nguồn lực cho phát triển kinh tế.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì phối hợp với các bộ ngành, địa phương xây dựng Đề án trung tâm tài chính khu vực và quốc tế. Đây là Đề án nhằm khai thác nguồn lợi của nước ta trong thu hút, hấp dẫn các nhà đầu tư, huy động nguồn lực tài chính quốc tế cho phát triển.
Đây cũng là bước đi hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng. Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ trong bối cảnh mới Việt Nam phải nhanh chóng bứt phá, rút ngắn khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới.
Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 xác định phương hướng, nhiệm vụ “Thúc đẩy TP. HCM trở thành trung tâm tài chính quốc tế”; Nghị quyết 43-NQ/TW ngày 24/1/2019 của Bộ Chính trị đã xác định xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước và Đông Nam Á với vai trò là trung tâm về khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, du lịch, thương mại và tài chính.
Việc xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế và khu vực là nơi có các cơ chế, chính sách vượt trội, hấp dẫn các nhà đầu tư lớn, hiện đại đến Việt Nam từ đó huy động, thu hút các nguồn lực tài chính mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo động lực tăng trưởng mới. Đề án sẽ đề xuất lộ trình vừa có tính vượt trội về thể chế, chính sách để hấp dẫn các nhà đầu tư có nguồn lực và năng lực tài chính mạnh, vừa phù hợp đón đầu các xu thế, nắm bắt được các cơ hội phát triển mới.
Bên cạnh đó, việc định hướng thí điểm phát triển các khu thương mại tự do đã được xác định cụ thể tại các địa phương có tiềm năng tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh của các thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Hiện nay, các địa phương đang xây dựng Đề án thí điểm khu thương mại tự do trên cơ sở Quy hoạch tỉnh, Quy hoạch vùng đã được phê duyệt.
Trong thời gian tới, 3 thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng và Bà Rịa - Vũng Tàu chủ động xây dựng Đề án thí điểm hình thành 3 khu thương mại tự do tại ba miền Bắc, Trung, Nam để tạo động mạnh mẽ phát triển các trung tâm logistics lớn, có năng lực cạnh tranh vượt trội, tăng cường, lan tỏa, khuếch tán các động lực tăng trưởng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thời gian qua, Chính phủ đã ưu tiên, tập trung bố trí nguồn lực đầu tư các dự án, công trình lớn, phát triển hạ tầng, thúc đẩy liên kết vùng, khơi thông nguồn lực.
Bên cạnh đó, nhiều cơ chế chính sách đặc thù được thí điểm thực hiện tại các tỉnh, thành phố lớn, tăng cường phân cấp, tạo sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của các địa phương, đồng thời có chính sách ưu đãi mạnh mẽ để khuyến khích đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển các ngành mới nổi, các mô hình kinh doanh mới, khai thác và phát huy vai trò của các đô thị lớn trong đổi mới mô hình tăng trưởng.
Hiện nay, một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển và khai thác thế mạnh các vùng cũng được nghiên cứu, xây dựng nhằm cơ chế, huy động các nguồn lực, phát huy lợi thế, tạo động lực phát triển các vùng.
Trong bối cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu và định hướng huy động, thu hút đầu tư của Việt Nam, Quỹ hỗ trợ đầu tư đang được xây dựng và hoàn thiện. Quỹ không chỉ nhằm duy trì sức cạnh tranh và hấp dẫn trong thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia trong bối cảnh mới mà còn hy vọng là công cụ khuyến khích, thu hút, hỗ trợ hiệu quả cho phát triển doanh nghiệp trong nước trong một số lĩnh vực mới nổi, cần đặc biệt khuyến khích để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình xây dựng khung chính sách, pháp luật, hoàn thiện thể chế để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, mô hình kinh tế mới, các Bộ, ngành và địa phương đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế mới cho các công nghệ mới, mô hình, thực tiễn kinh doanh mới, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, Chính phủ số và an toàn an ninh mạng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thông tin truyền thông, thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng thực hiện chuyển đổi số, áp dụng các công nghệ ưu tiên để chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, xây dựng Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, kiện toàn Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số.
Các Bộ, ngành và địa phương cũng đã kiện toàn Ban chỉ đạo chuyển đổi số của Bộ, ngành và địa phương; nghiên cứu và ban hành Kế hoạch chuyển đổi số và lồng ghép nội dung chuyển đổi số vào quy hoạch, kế hoạch, cũng như kế hoạch hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp; đầu tư cơ sở hạ tầng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, triển khai dịch vụ công trực tuyến một phần (cấp độ 3) và toàn phần (cấp độ 4), xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu công dân được sử dụng hiệu quả.
Các thể chế, chính sách tạo điều kiện phát triển các mô hình kinh tế mới như kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế chia sẻ… đang được xây dựng. Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Xây dựng Chương trình quốc gia về phát triển kinh tế tuần hoàn, Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn, xây dựng bộ tiêu chí về phân loại xanh và hệ thống ngành kinh tế xanh. Cơ chế, chính sách phát triển các khu công nghiệp sinh thái, tài chính, tín dụng xanh đã được ban hành và triển khai thực hiện, xây dựng lộ trình phát triển thị trường các-bon…
Bên cạnh đó, tập trung hoàn thiện thể chế, luật pháp, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số đang được coi là nhiệm vụ trọng tâm, đang được triển khai quyết liệt.
Sửa đổi các luật liên quan đến huy động nguồn lực, đầu tư kinh doanh để kịp thời tháo gỡ vướng mắc, huy động hiệu qua các nguồn lực như sửa Luật đầu tư công; ban hành một luật để sửa các luật đang có một số vướng mắc như Luật Đầu tư, Luật Quy hoạch, Luật Đấu thầu, Luật Đối tác công tư...
Tiến hành sửa đổi, bổ sung khung khổ pháp luật, tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các hoạt động kinh tế, lĩnh vực mới, mô hình sản xuất kinh doanh mới. Rà soát, chỉnh sửa quy định về đầu tư và cơ chế, chính sách tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số phù hợp với yêu cầu khuyến khích phát triển và tính chất đặc thù.
Đồng thời, cần nghiên cứu, sửa đổi toàn diện Luật Khoa học và Công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, trường đại học, viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu mạnh; đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước giữa cơ quan trung ương và chính quyền địa phương, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Nguồn lực tài chính xanh thúc đẩy phát triển bền vững
Chuyển dịch kinh tế theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế phát thải carbon thấp là xu thế tất yếu của thời đại, được đồng thuận toàn cầu và được coi là cuộc cách mạng công nghiệp xanh của thế kỷ 21.
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng lớn nhất do biến đổi khí hậu, tại Hội nghị COP 26, Việt Nam đã cam kết giảm 30% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030, giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050.
Cùng với xu thế toàn cầu, đây có thể coi là bước ngoặt của nước ta trong chuyển đổi mô hình kinh tế, vừa giảm thiểu các nguy cơ, thách thức, vừa chủ động điều chỉnh cơ cấu kinh tế góp phần thực hiện những chủ trương lớn của Chính phủ, đó là phát triển xanh và bền vững. Đặc biệt, Việt Nam có thể tận dụng được các cơ hội huy động nguồn lực thông qua các kênh tài chính xanh mới để thúc đẩy phát triển bền vững.
Xu thế trên thế giới cho thấy đầu tư vào năng lượng tái tạo tăng trưởng mạnh mẽ. Ví dụ, năm 2023 tổng đầu tư vào năng lượng sạch vượt 3 nghìn tỷ USD, cao gấp đôi so với đầu tư vào nhiên liệu hóa thạch.
Một ví dụ khác là Việt Nam có nguồn dự trữ carbon tương đối lớn từ tài nguyên rừng tự nhiên, chiếm tới hơn 40% tổng diện tích trên cạn của quốc gia. Với diện tích rừng 14,79 triệu ha, tỷ lệ che phủ ở mức hơn 42%, Việt Nam nằm trong số 60 quốc gia trên thế giới có khả năng bán tín chỉ carbon từ rừng. Ước tính, giai đoạn 2021-2030, nước ta sở hữu khoảng 40-70 triệu tín chỉ carbon rừng mỗi năm, có thể bán cho thị trường tín chỉ carbon thế giới. Nếu làm tốt, trong tương lai Việt Nam có thể thu về hàng chục nghìn tỷ đồng từ chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.
Trong khi đó, nhu cầu tài chính cho chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế xanh ở nước ta cũng rất lớn. Theo tính toán, để đạt được đóng góp không điều kiện trong cam kết giảm phát thải quốc tế cập nhật năm 2022 nhằm giảm phát thải khí nhà kính xuống mức 15,8% so với kịch bản thông thường (BAU) vào năm 2030, Việt Nam sẽ cần huy động khoảng 21,7 tỷ USD.
Tổng nhu cầu tài chính bổ sung để giảm phát thải khí nhà kính đến mức 43,5% so với BAU vào năm 2030, bao gồm cả hỗ trợ quốc tế và đóng góp không điều kiện, ước tính là 86,8 tỷ USD cho giai đoạn đến năm 2030. Trong đó, riêng ngành năng lượng cần 60,6 tỷ USD, tương ứng với việc thực hiện các cam kết liên quan đến năng lượng của Việt Nam tại COP26, tính đến giai đoạn đến năm 2030. Hay ước tính, để triển khai thành công mục tiêu về kinh tế xanh và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam sẽ cần huy động thêm khoảng 144 tỷ USD trong giai đoạn 2021-2050.
Chính vì vậy, trong thời gian tới, hoàn thiện thể chế, tạo lập điều kiện để hình thành các công cụ huy động hiệu quả các nguồn lực tài chính xanh là yêu cầu cấp thiết.
Một số giải pháp huy động nguồn lực tài chính, thúc đẩy chuyển đổi xanh cần được chú trọng ưu tiên như hoàn thiện thể chế tạo điều kiện thúc đẩy chuyển đổi xanh, ban hành các tiêu chuẩn xanh, kinh tế xanh, thể chế vận hành thị trường carbon…; thúc đẩy phát triển tín dụng xanh, các công cụ tài chính xanh; ban hành các tiêu chuẩn xanh trong quá trình đánh giá, thẩm định các dự án đầu tư, thúc đẩy các mô hình kinh tế xanh mới; ban hành các chính sách ưu đãi thuế, chính sách hỗ trợ thông tin, nhân lực, khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi xanh. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và phát triển kinh tế xanh đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu, ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia.
Công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ năng lượng mới, công nghệ xanh sẽ thúc đẩy phát triển kép kinh tế số và tăng trưởng xanh, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo theo hướng số hóa, xanh hóa đóng vai trò là động lực phát triển mạnh nhất, có tiềm năng vô tận, có thể tạo bước đột phá trong nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2045 đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao là rất thách thức, đòi hỏi quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, cần đặc biệt sáng tạo, tạo bước đột phá trong đổi mới mô hình tăng trưởng thì mới không để lỡ các cơ hội phát triển.
Bảo hiểm: Mảnh ghép còn thiếu trong bức tranh tăng trưởng xanh
- Tăng trưởng xanh tại Việt Nam: Còn khoảng trống lớn giữa chính sách và thực thi 21/10/2024 07:50
- 'Lạm phát không còn đáng ngại, tăng trưởng triển vọng trên 7%' 19/10/2024 07:30
- Trung Quốc hạ lãi suất cho vay, nỗ lực hỗ trợ tăng trưởng 21/10/2024 11:32
Thâm nhập khu đất xây dựng Tổ hợp Hòa Xuân hơn 3.500 tỷ ở Đà Nẵng
(VNF) - Khu đất sắp đấu giá để thực hiện dự án Tổ hợp, thể thao giải trí và thương mại Hòa Xuân có diện tích rộng 101 ngàn m2.