Diễn đàn VNF

TS Phạm Sỹ Thành: 'Ở thời điểm bất thường, những chính sách phi truyền thống nên được tính đến'

(VNF) – TS Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR, cho rằng quy mô chính sách hỗ trợ kinh tế của Chính phủ còn tương đối khiêm tốn. Ông cho rằng ở thời điểm bất thường, những chính sách phi truyền thống nên được tính đến.

TS Phạm Sỹ Thành: 'Ở thời điểm bất thường, những chính sách phi truyền thống nên được tính đến'

TS Phạm Sỹ Thành

5 điểm khác biệt của khủng hoảng kinh tế năm 2020

Bình luận tại hội thảo công bố báo cáo vĩ mô quý I/2020 do Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) tổ chức sáng 13/4, TS Phạm Sỹ Thành cho rằng bức tranh kinh tế năm 2020 rất khác so với những năm trước, thậm chí là so với các giai đoạn trước. Ông Thành cho rằng có 5 điểm đáng chú ý.

Thứ nhất, năm 2020, kinh tế toàn cầu có 2 điểm xấu chưa từng xảy ra: một là suy giảm kinh tế ở mọi quốc gia, các thị trường lớn của Việt Nam đều là tâm dịch; hai là mọi ngành nghề đều bị ảnh hưởng, kể cả những ngành hái ra tiền như du lịch, nông nghiệp, điện tử…

Thứ hai, sự gián đoạn nguồn cung trở nên rõ nét. Việc gián đoạn này tác động mạnh tới Việt Nam, bởi kinh tế Việt Nam chủ yếu là gia công ở trình độ thấp, phụ thuộc lớn vào nguồn cung nước ngoài như Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN. Nguồn cung bị gián đoạn, hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng rất lớn.

“Gián đoạn nguồn cung xảy ra ngay lập tức ở Trung Quốc. Một con số làm chúng ta giật mình là có 14 tỉnh thành của Trung Quốc chiếm 69% GDP của nước này và cho đến nay hoạt động xuất khẩu của họ vẫn chưa trở lại bình thường. Nguồn cung trên toàn cầu và của Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực”, ông Thành nói.

Điểm đáng chú ý thứ 3 là khủng hoảng làm gián đoạn nguồn cung dẫn đến tổng cầu suy giảm. Cả cung và cầu đều bị gián đoạn khiến cho những nước khỏi dịch và trở lại sản xuất với đối diện với khó khăn vì không tìm được đầu ra cho sản phẩm. Kinh tế Việt Nam lại càng bị ảnh hưởng nặng vì sản xuất của Việt Nam đa phần phục vụ xuất khẩu, phần giữ lại cho tiêu dùng trong nước rất nhỏ.

Điểm thứ 4 là sau đại dịch, thế giới sẽ ngập tràn tiền rẻ, vốn rẻ. Và đây là nguy cơ đối với các nước có đồng tiền yếu.

Điểm thứ 5 là các dự báo về kinh tế toàn cầu đã trở nên bi quan hơn rất nhiều so với tháng 10 năm ngoái hoặc tháng 1 năm nay.

“Điều quan ngại hơn cả mà ta đang thấy là không có quốc gia lãnh đạo, không có sự hợp tác giữa các nước, vai trò của các định chế đa phương rất mờ nhạt. Đây là thử thách cho sự phục hồi của kinh tế toàn cầu”, ông Thành bình luận.

Theo ông Thành, các kịch bản dự báo kinh tế đã được nhiều bên đưa ra, tuy nhiên có một câu hỏi rất quan trọng là liệu nền kinh tế sẽ thoát khỏi đại dịch này như một tai nạn hay đại dịch sẽ vĩnh viễn thay đổi các nhu cầu và hành vi kinh tế?

“Sau cách ly, thói quen đi lại, chi tiêu sẽ thay đổi như thế nào? Thời gian làm việc, mua sắm trên mạng so với mua sắm trực tiếp khác nhau ra sao? Đấy đều là những vấn đề phải tính toán nghiêm túc vì khi các hành vi thay đổi thì nền kinh tế sẽ hoàn toàn khác”.

Gói hỗ trợ của Việt Nam quy mô nhỏ, không có trọng tâm

Nhận xét về cách thức ứng phó với đại dịch và phát triển kinh tế của Chính phủ Việt Nam, ông Thành cho rằng Chính phủ hiện chưa phân chia rõ về chính sách phản ứng trong đại dịch và sau đại dịch.

“Hiện các chính sách đang tập trung vào ứng phó với dịch bệnh chứ chưa nghĩ tới viễn cảnh sau đại dịch như thế nào”, ông nói.

Ông Thành cũng cho rằng Chính phủ đang quá tập trung vào chống dịch hơn là lo các chính sách kinh tế giúp doanh nghiệp và người dân vượt qua khủng hoảng.

Theo ông, gói hỗ trợ kinh tế của Chính phủ Việt Nam có quy mô “tương đối khiêm tốn”.

“Ta có gói hỗ trợ an sinh xã hội 62.000 tỷ, tức là đâu đó khoảng 2,5 tỷ USD, bằng 1% GDP. Nhìn sang với các nước trong khu vực Đông Nam Á, như Singapore, 2 gói kích thích của họ đã lên tới 38 tỷ USD, bằng 11% GDP và chiếm nửa ngân sách của họ. Như vậy, gói hỗ trợ của ta vẫn còn khiêm tốn, cách phản ứng vẫn rất truyền thống.

“Đương nhiên tôi hiểu ngân sách không dư dả để Chính phủ có thể mạnh tay. Bộ Tài chính đã phải dành nhiều công sức để giảm thâm hụt ngân sách. Nhưng ở thời điểm bất thường, những chính sách phi truyền thống nên được tính đến”, ông Thành nêu quan điểm.

Một nhận xét khá gai góc khác của ông Thành là chương trình hỗ trợ kinh tế của Chính phủ Việt Nam không có trọng tâm.

“Các phản ứng của Chính phủ, thoạt nhìn, rất toàn diện, từ tiền tệ, tài khóa đến bảo hiểm xã hội, an sinh nhưng tôi không thấy trọng tâm của chính sách ấy. Không ai hiểu Chính phủ đang hướng tới khu vực nào, ngành nghề nào, doanh nghiệp nào. Các chính sách này giống như bắn tên mà không có đích vậy.

“Hãy tập trung vào một nhóm đối tượng, nhóm ngành nghề có mức độ tổn thương lớn hoặc có sức lan tỏa lớn. Đó mới là hiệu quả của chính sách ở thời điểm bất thường”.

Cũng theo ông Thành, các chương trình của Chính phủ được thực hiện quá chậm chạp. Tính đến thời điểm này, đại dịch đã bước sang tháng thứ 3. “Trong chính sách tiền tệ, tất cả những gì Ngân hàng Nhà nước và 23 ngân hàng thương mại đã làm là lên phương án hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhưng đến nay chưa có gói nào giải ngân. Chính sách tài khóa, bảo hiểm xã hội cũng vậy. Tất cả những gì ta biết là Bộ Tài chính và các địa phương đang lên dự thảo, tức mới chỉ trên giấy”.

“Ở thời điểm nào thì liều thuốc kích thích thực sự được bơm vào nền kinh tế? Tôi nghĩ về quy mô, tốc độ và đích ngắm, Chính phủ đều thiếu. Đó là điều phải khắc phục nhanh nếu không muốn các doanh nghiệp và người dân đối diện với khó khăn hơn nữa, nhất là khi dịch vẫn chưa biết còn kéo dài đến bao giờ”, ông Thành bày tỏ.

Tin mới lên