(VNF) - Cách mạng tháng 8/29145 là sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc ta, xóa bỏ chế độ thực dân, giành độc lập dân tộc, thành lập chính quyền của dân. Từ đó đến nay đã 74 năm, dân tộc ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong 30 năm, đất nước thống nhất, tiến hành xây dựng kinh tế trong hòa bình.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, ttrước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày nay với hào khí cách mạng tháng 8 và khát vọng của dân tộc vươn lên tầm cao mới, Việt Nam đang chuyển đổi theo mô hình tăng trưởng lấy đổi mới, sáng tạo làm động lực chính, hướng đến nền kinh tế số của nước công nghiệp phát triển thu nhập cao, người dân có cuộc sống hạnh phúc.
30 năm chiến tranh
Ngay sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, thực dân Pháp đã gây chiến nhằm tái xâm lược nước ta. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, thực hiện đường lối “kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài”. Trải qua 9 năm (1945 - 1954) vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, càng đánh càng mạnh, giành được nhiều thắng lợi mà đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Pháp buộc phải ký kết Hiệp định Genève (21/7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam; đất nước tạm thời chía làm hai miền: miền Bắc quá độ lên chủ nghía xã hội, miền Nam chịu sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới.Từ 1965, Mỹ và một số nước đồng minh đưa quân vào miến Nam, lúc cao nhất gần 55 vạn quân Mỹ và 7 vạn quân đồng minh, khoảng 1 triệu quân của ngụy quyền Sài Gòn với nhiều loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại; đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Để đối phó với đế quốc Mỹ, BCHTU Đảng đã ra Nghị Quyết 15 (tháng 1/1959): “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm thực hiện mục tiêu chung là giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tạo điều đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đường lối của Đảng đã tập hợp được mọi lực lượng tạo thành khối đại đoàn kết thống nhất, biến thành hành động thực tiễn của các tầng lớp dân cư bằng các phong trào như đơn vị vũ trang “Ba nhất”, thanh niên “Ba sẵn sàng”, phụ nữ “Ba đảm đang” ở miền Bắc; các phong trào “Bám đất, giữ làng”, “ Đồng khởi” , “Một tấc không đi, một li không dời”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt” ở miền Nam.
Các chiến lược chiến tranh của Mỹ như “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) lần lượt thất bại, buộc Chính phủ Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1/1973), rút hết quân viễn chinh về nước (3/1973).
Cuối năm 1974, đầu năm 1975, chớp thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị đề ra “Kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam”, ra lời kêu gọi động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền đẩy mạnh đấu tranh, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành toàn thắng. Chỉ trong 55 ngày đêm, quân dân ta diệt, làm tan rã hơn 1,1 triệu quân địch, đập tan bộ máy chính quyền và quân đội Sài Gòn, giải phóng miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm (1945 - 1975) chiến tranh giải phóng dân tộc để thống nhất Tổ quốc.
Trong 30 năm chiến tranh hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã hy sinh, nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, hậu quả chiến tranh phải mất nhiều thập niên mới khắc phục được; nhưng đã thể hiện bản lĩnh, ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.
10 năm trước “Đổi mới”
Ngày 30/4/1975 mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một mốc son chói lọi “Từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau/Trời ta chỉ một trên đầu/Bắc Nam liền một dải” (Tố Hữu). Lịch sử dân tộc đã mở ra trang mới, có điều kiện thuận lợi để khôi phục và chấn hưng kinh tế trong hòa bình, nên nhiều mục tiêu đầy tham vọng đã được đề ra nhằm nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, đưa nước ta tiến lên với tốc độ phát triển cao, có vị thế xứng đáng trong khu vực và trên thế giới.
Tuy vậy, giai đoạn 1975 - 1990 nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức to lớn. Cuối 1978 và đầu 1979 phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh: biên giới Tây Nam chống lại bè lũ Pônpôt xâm lược một số khu vực biên giới của nước ta, hỗ trợ quân dân Cămpuchia trước họa diệt chủng và biên giới phía Bắc chống quân xâm lược Trung Quốc. Tiếp đó là chủ trương cấm vận quốc tế do một số nước tư bản áp đặt đối với Việt Nam, Liên Xô (cũ) chia ra nhiều quốc gia độc lập, phe XHCN không còn tồn tại như một thực thể đối lập với phe TBCN, quan hệ Việt Nam- Trung Quốc vẫn trong trạng thái băng giá.
Đường lối, chính sách kinh tế phạm những sai lầm to lớn, nóng vội trong việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Nam, phát triển kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ cấu kinh tế dựa vào sở hữu công cộng với hai thành kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể; kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển. Do vậy, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng, lạm phát phi mã ở mức ba con số trong nhiều năm, đời sống của nhân dân thành thị và nông thôn rất khó khăn.
Trong bối cảnh đó, không ít tổ chức, địa phương đã “phá rào” với nhiều sáng kiến nhằm khắc phục một phần trạng thái trì trệ trong sản xuất và phân phối hàng hóa. Một số xí nghiệp công nghiệp thực hiện sản xuất ngoài kế hoạch nhà nước, bán sát giá thị trường, thường là “chân ngoài dài hơn chân trong”, làm tăng đáng kể thu nhập của người lao động.
Tỉnh An Giang mua nông sản không theo “giá nghĩa vụ” rất thấp do nhà nước quy định, mà theo “giá thỏa thuận” sát giá thị trường, bán hàng công nghiệp cho nông dân cũng sát giá thị trường đã kích thích tính tích cực của nông dân, tạo ra những vụ mùa bội thu. Tỉnh Long An chủ trương “bù giá vào lương”, bỏ tem phiếu, bán hàng theo giá thị trường đã giảm thiểu tình trạng mất cân đối cung- cầu, không còn “các kho dự trữ hàng hóa” của từng gia đình như khi còn tem phiếu.
Từ năm 1975 đến trước Đại hội lần thứ VI, một số cuộc cải cách đã được tiến hành, nhiều chủ trương, chính sách mới được ban hành.
Đối với nông nghiệp, nổi bật hơn cả là Chỉ thị 100 của Ban Bí thư năm 1981 chủ trương khoán sản phẩm đến người lao động, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Các tỉnh miền Nam được hoãn tiến độ hợp tác hóa, chủ yếu duy trì hợp tác xã cấp thấp, khuyến khích kinh tế gia đình.
Đối với công nghiệp, năm 1979 đã có Nghị quyết TƯ 6 khóa IV về “phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp địa phương”, năm 1981 có Quyết định 25 và 26 CP về cải tiến kế hoạch hóa, chia kế hoạch xí nghiệp thành ba phần “kế hoạch pháp lệnh, kế hoạch tự sản xuất sản phẩm chính và kế hoạch sản xuất sản phẩm phụ”.
Đối với thương nghiệp và dịch vụ là thu hẹp phạm vi và điều chỉnh nâng giá thu mua theo nghĩa vụ đối với sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp, khuyến khích sản xuất và kinh doanh cá thể để tăng thêm hàng hóa cung ứng cho thị trường.
Một số cuộc cải cách “giá cả- tiền lương- tiền tệ” đã được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề quản lý kinh tế vĩ mô. Cuộc cải cách “giá- lương- tiền” cuối cùng trước khi có chủ trương đổi mới được tiến hành tháng 10/1985, bao gồm đổi tiền cũ lấy tiền mới, điều chỉnh tiền lương cho công nhân, viên chức và sửa đổi hệ thống giá cả vật tư và hàng tiêu dùng. Cuộc cải cách đó đã thất bại, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế- xã hội.
Chỉ vài tháng sau khi thực hiện tình hình kinh tế trở nên xấu đi, việc đổi tiền đã đẩy chỉ số giá cả tăng vọt không thể kiểm soát được, nhiều cán bộ và người dân mất gần hết khoản tiền tiết kiệm gửi ở ngân hàng do giá trị đồng tiền bị giảm sút, đời sống cán bộ và nhân dân khó khăn hơn trước.
Tại Đại hội lần thứ VI (12/1986) Đảng đã công khai thừa nhận sai lầm về đường lối xây dựng kinh tế và quyết định thực hiện công cuộc Đổi mới theo kinh tế thị trường và Hội nhập quốc tế.
34 năm “Đổi mới”
Từ 1987 đến 1990 là thời kỳ cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội diễn ra nghiêm trọng, hàng hóa tiêu dùng vẩn được phân phối định lượng bằng tem phiếu, thu hút đầu tư nước ngoài còn ít, khoảng 1 tỷ USD vốn thực hiện.
Từ 1991 đến 1998 là thời kỳ hoàng kim của kinh tế Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,6%/năm, cao hơn dự kiến (5,5%/năm), tất cả chỉ tiêu kế hoạch đều được thực hiện vượt mức khá xa.
Một số sự kiện hội nhập quốc tế quan trọng:
Ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 diễn ra cuộc gặp cấp cao Việt Nam và Trung Quốc tại Thành Đô; hai bên đã ký văn kiện quan trọng về việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Ngày 3 tháng 2 năm 1994 Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận đối với Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai nước.
Tháng 7 năm 1995 Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao; Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á- ASEAN và ký Hiệp định khung với Liên minh Châu Âu- EU về quan hệ kinh tế và văn hóa.
Năm 1997, Hội nghị cấp cao lần thứ năm của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương- APEC họp tại Canada từ 24 đến 25 tháng 11 đã quyết định kết nạp Việt Nam vào APEC năm 1998.
Ngày 2 tháng 7 năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực bắt đầu từ Thái Lan với chủ trương thả nổi tỷ giá đồng Bath sau 13 năm neo với USD (1USD=24-25 Bath), làm cho đồng Bath mất giá nhanh chóng, dự trữ ngoại tệ của nước này sụt giảm nghiêm trọng, tác động đến nhiều nước trong khu vực. Việt Nam chịu tác động với độ trễ, nên từ 1999 đến 2004 tốc độ tăng trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu hàng hóa, thu hút FDI giảm sút.
Từ 2005 đến 2008 là giai đoạn khôi phục kinh tế, tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 8%/ năm, xuất nhập khẩu tăng hai con số, thu hút FDI đạt kỷ lục với vốn thực hiện năm 2008 là 8 tỷ USD.
Năm 2008 cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tác động tiêu cực đến nước ta kéo dài đến năm 2010. Từ 2011 đến nay tình hình kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng xấp xỉ 7%/năm, nhiều năm xuất siêu, vốn FDI thực hiện tăng 7-8%/năm.
Từ 1991 đến nay Việt Nam thu được những thành tựu quan trọng như Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991- 2018 trung bình gần 7%/năm, có 3 năm trên 7%, 7 năm trên 8% và 2 năm trên 9%; GDP/người năm 1991 là 188 USD thuộc nhóm thấp nhất, năm 2011 là 1260 USD, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp), năm 2018 đạt 2587 USD, bằng 2,23 lần năm 2011 và 13,76 lần năm 1991; Kim ngạch ngoại thương năm 1991 là 5156,4 triệu USD, trong đó xuất khẩu là 2087,1 triệu USD, các con số tương ứng năm 2018 là 480,17 tỷ USD, 243,48 tỷ USD và 236,69 tỷ USD, xuất siêu 6,79 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu 2018 bằng 47,2 lần năm 1991...
Từ 1991 đến 2018 nước ta đã tiếp nhận được nguồn vốn quốc tế khá lớn, trong đó vốn đầu tư nước ngoài thực hiện khoảng 195 tỷ USD, chiếm khoảng 22% tổng vốn đầu tư xã hội. Từ khi có Luật Doanh nghiệp (1999) đến nay đã có khoảng 1,5 triệu DN tư nhân ra đời, hiện còn khoảng 720 nghìn DN đang hoạt động, trong đó có hơn 11 nghìn DN lớn, một số tập đoàn kinh tế Việt Nam đã có thứ hạng cao trong khu vực, hơn 29 nghìn DN FDI.
Những con số thống kê đã biểu hiện rõ ràng thành tựu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, làm cho tiềm lực kinh tế của đất nước tăng lên gấp nhiều lần.
Khoảng cách và khát vọng
Khẳng định thành tựu kinh tế- xã hội rất đáng khích lệ của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, nhiều người có tâm huyết vẫn băn khoăn khi nhìn sang các nước láng giềng trong khu vực đã làm nên “Sự thần kỳ Đông Á”.
Cuốn sách của Angus Maddison: “Kinh tế thế giới-Một thiên niên kỷ phát triển” đã cung cấp những tư liệu về kinh tế của các nước trong thế kỷ XX.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong thời kỳ 1950-1973 của Nhật Bản là 9,29%, của Hồng Công là 8,13%, của Đài Loan là 9.81%, của Hàn Quốc là 8,13% và của Singapore là 7,93%.
GDP/người của Nhật Bản năm 1950 là 1.926 đôla quốc tế (ĐLQT), năm 1973 là 11.439 ĐLQT, các con số tương ứng của Hồng Công là 2.218 và 7.104 ĐLQT, của Đài Loan là 936 và 4.117 ĐLQT, của Hàn Quốc là 770 và 2.841 ĐLQT và của Singapore là 938 và 4.117 ĐLQT. Trung Quốc đã liên tục tăng trưởng từ 9-10%/năm trong hai thập niên.
Cần lưu ý rằng, các nước này phát triển kinh tế trong điều kiện không mấy thuận lợi khi bắt đầu vào vạch xuất phát. Nhật Bản từ đống tro tàn sau chiến tranh; Đài Loan do Quốc dân đảng tiếp quản sau khi chạy khỏi lục địa Trung Quốc năm 1949; Hàn Quốc bị tàn phá nặng nề của cuộc Chiến tranh Triều Tiên; Singapore tách khỏi Malaysia từ 1965; Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới đối mặt với nhiều vấn đề trong nước và quốc tế.
Lúc này hoặc không bao giờ để khát vọng của dân tộc Việt Nam tiến kịp trình độ phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới: “Đạt đến một xã hội thịnh vượng, sẽ là ngưỡng cao hướng tới của nhóm nước có thu nhập trung bình cao của thế giới. Một nền kinh tế thị trường do khu vực tư nhân dẫn dắt, mang tính cạnh tranh và hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới... nền kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào mạng lưới kết nối tốt”. (Bộ KH&ĐT và WB: Tầm nhìn 2035).
Mục tiêu đầy tham vọng đó có thể đạt được (thậm chí sớm hơn) nếu: (1) Tăng trưởng với tốc độ cao hơn hiện nay; (2) Tăng trưởng có hiệu suất, tăng trưởng xanh, tăng trưởng bao trùm; (3) Phát triển bền vững về xã hội và môi trường và (4) Có thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập.
Kỷ niệm 74 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh, dân tộc ta có thể tự hào về công cuộc chống ngoại xâm, giành độc lập và đổi mới theo kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; nhưng cũng tự nhận thấy thực trạng kinh tế- xã hội của một nước có thu nhập trung bình thấp để vươn lên mạnh mẽ hơn trong một thế giới đầy thách thức, đồng thời nhiều cơ hội cho đất nước khi chuẩn bị bước sang thập niên thứ ba của thiên niên kỷ mới.
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Gần 3ha đất nông nghiệp của Tân Á Đại Thành ở quận Hoàng Mai cũ (Hà Nội) được chuyển đổi mục đích sử dụng để thực hiện tổ hợp nhà ở, văn phòng.