Khu vực tư nhân: Động lực phát triển và những vấn đề để ngỏ
TS. Võ Trí Thành -
31/05/2018 06:48 (GMT+7)
(VNF) - Sau 30 năm Đổi mới (khởi xướng năm 1986), một trong những thành tựu nổi bật nhất của cải cách kinh tế ở Việt Nam là sự nổi lên của một khu vực tư nhân năng động. Tuy nhiên, đây không phải là một quá trình trơn tru, theo quan điểm của TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
Khu vực tư nhân: Động lực phát triển và những vấn đề để ngỏ
Vai trò to lớn
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 12 đã ban hành Nghị quyết về kinh tế tư nhân, nhấn mạnh vai trò ngày càng to lớn của khu vực này đối với phát triển đất nước. Nghị quyết khẳng định “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Sau 30 năm đổi mới (khởi xướng năm 1986), một trong những thành tựu nổi bật nhất của cải cách kinh tế ở Việt Nam là sự nổi lên của một khu vực tư nhân năng động. Tuy nhiên, đây không phải là một quá trình trơn tru. Sự phức tạp và “gồ ghề” của nó được phản ánh qua cách sử dụng các thuật ngữ, từ “nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần”, đến “cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”, rồi chuyển sang “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Trước đổi mới, Việt Nam thực chất là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước quản lý cả đầu vào vật tư nguyên liệu và đầu ra trong sản xuất và chỉ thừa nhận quyền sở hữu nhà nước và tập thể đối với các công cụ sản xuất chủ yếu. Về cơ bản, quyền tự chủ kinh doanh còn vắng bóng.
Đối với khu vực tư nhân, năm 1986 chính là mốc khởi đầu của quá trình thay đổi tư duy không thể đảo ngược; theo đó Việt Nam đi vào tạo dựng mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp với cấu trúc sở hữu đa dạng. Vào cuối những năm 1980 và đầu 1990, Việt Nam đã thực hiện một gói cải cách toàn diện và cấp tiến nhằm ổn định, mở cửa nền kinh tế và tăng cường cạnh tranh cùng quyền tự do lựa chọn cho các đơn vị kinh tế. Lần đầu tiên, Chính phủ đã thể hiện trên thực tế sự hỗ trợ cho khu vực tư nhân trong nước phát triển.
Năm 2000 là bước ngoặt quan trọng tiếp theo trong phát triển khu vực tư nhân. Luật Doanh nghiệp được thông qua làm giảm đáng kể gánh nặng quản lý đối với việc đăng ký kinh doanh, góp phần tạo ra sự gia tăng nhanh chóng số lượng doanh nghiệp tư nhân. Kể từ đó, khu vực tư nhân đã phát triển mạnh, đóng góp tới 39 - 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Đáng chú ý là khu vực tư nhân cũng chính là nguồn tạo việc làm chủ yếu, hấp thụ khoảng 85% trong số 1,3-1,4 triệu người gia nhập thị trường lao động mỗi năm.
Hiện tại chúng ta có thể nhìn thấy hình ảnh của một khu vực tư nhân năng động và nổi bật với một số lượng lớn ba, bốn thế hệ doanh nhân biết tiến bước để thành công. Cùng với đó là một phong trào khởi nghiệp mạnh mẽ.
Năm 2016 và 2017, đất nước đã chứng kiến một số lượng doanh nghiệp mới thành lập đạt kỷ lục, tương ứng là 110.000 và 127.000, đưa tổng số doanh nghiệp tư nhân lên gần 700.000. Số doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tăng gần gấp đôi trong hai năm, từ 1.800 năm 2016 lên hơn 3.000 năm 2017. Khoảng 40 quỹ đầu tư mạo hiểm quốc tế đã hoạt động tại Việt Nam; nhiều định chế tài chính, các tập đoàn và các nhà đầu tư đang tích cực tham gia huy động, sử dụng nguồn lực tài chính lớn cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Động lực cho phát triển của kinh tế tư nhân chính là sự khẳng định của Nhà nước về vai trò to lớn của khu vực này, là việc thừa nhận quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do kinh doanh, cùng các chính sách hỗ trợ khác. Nghị quyết mới xem kinh tế tư nhân như một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển đất nước đã tái khẳng định cam kết của Việt Nam là tạo xung lực vững chắc cho khu vực tư nhân lớn mạnh một cách bền vững.
Lượng nhiều, chất yếu
Việt Nam hiện có gần 700.000 doanh nghiệp tư nhân, nhưng đa số các doanh nghiệp đăng ký đều có quy mô nhỏ, tới 70% có qui mô dưới 10 lao động và vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng. Số lượng doanh nghiệp lớn đang tăng lên, nhưng vẫn chưa thể hiện được vai trò dẫn đầu trong đổi mới sáng tạo và tăng trưởng.
Một lo ngại nữa trong khu vực tư nhân là xu hướng qui mô giảm dần, cản trở tăng năng suất nhờ lợi thế qui mô, chuyên môn hóa và sáng tạo công nghệ. Nhiều hộ kinh doanh từ chối đăng ký làm doanh nghiệp chính thức, do sợ phải đói phó với nhiều vấn đề liên quan đến tệ quan liêu và cách thức quản lý, làm tăng chi phí giao dịch.
Các công ty tư nhân có vị trí nổi bật trong hàng loạt cụm liên kết ngành (industrial clusters), như dệt may, giày dép và một số mặt hàng khác. Nhưng lưu ý là cấu trúc tổng thể của khu vực tư nhân vẫn mất cân đối, với hơn 80% doanh nghiệp tập trung vào các lĩnh vực thương mại và dịch vụ năng suất thấp và có giá trị gia tăng thấp. Số lượng các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và chế biến không nhiều.
Thực tế cũng cho thấy các doanh nghiệp tư nhân đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, với tỷ lệ thua lỗ và phá sản ở mức cao, trung bình là 45% trong giai đoạn 2007- 2016.
Báo cáo Việt Nam 2035 chỉ ra rằng năng suất và sức cạnh tranh của khu vực tư nhân Việt Nam có xu hướng giảm. Các doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu/khu vực song có vị thế yếu trong các chuỗi giá trị toàn cầu/khu vực.
Tất cả những điều đó chứng tỏ còn có rất nhiều trở ngại để khu vực tư nhân Việt Nam phát triển và trở thành khu vực dẫn đầu.
Những trở ngại
Có nhiều yếu tố đằng sau sự phát triển còn xa kỳ vọng của khu vực tư nhân. Như Báo cáo Việt Nam 2035 đã chỉ ra, đó là những yếu kém trong đảm bảo quyền tài sản, “sân chơi” không công bằng, sự méo mó của các thị trường nhân tố sản xuất cũng như việc khó tiếp cận chúng, và chi phí giao dịch cao.
Về mặt pháp lý, điểm yếu lớn nhất có lẽ là khung khổ đảm bảo quyền sở hữu tư nhân và cạnh tranh tự do và công bằng. Yếu kém trong thực thi pháp luật về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu trí tuệ đã kìm hãm sự nảy sinh các công ty tư nhân lớn và có tính cạnh tranh cao.
Thực tế là các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm ưu thế trong nhiều ngành và nhận được nhiều ưu đãi thông qua mối quan hệ thân hữu với quan chức nhà nước. Điều này cũng đang làm giảm cơ hội kinh doanh của các công ty tư nhân lành mạnh.
Sự không công bằng về môi trường kinh doanh cũng thể hiện qua khả năng tiếp cận vốn, đất đai, thông tin, cơ sở hạ tầng và lao động của khu vực tư nhân. Chi phí giao dịch được cho là còn rất cao, xuất phát cả từ sự quan liêu cũng như nạn tham nhũng. Trong khi đó, cơ quan cạnh tranh không làm tốt được công việc của mình do quyền lực yếu và tính độc lập thấp.
Vấn đề còn nằm ở chính sự yếu kém của các công ty tư nhân về nhận thức phát luật và thị trường, tầm nhìn phát triển và mạng lưới hợp tác, đó là chưa nói tới cách thức quản trị và văn hóa doanh nghiệp.
Và con đường thích hợp
Các nhà kinh tế học và các doanh nhân đã thảo luận và đề xuất nhiều sáng kiến, biện pháp cho Chính phủ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững đi cùng với việc cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp nhà nước một cách thưc chất. Nó khẳng định Việt Nam “chơi thật”, ở những lĩnh vực thị trường, tư nhân làm tốt và tốt hơn thì để tư nhân làm.
Quan trọng nhất là hiệu qủa trong phân bổ và sử dụng nguồn lực. Nó còn giúp tạo thêm niềm tin cho thị trường vào câu chuyện cải cách ở Việt Nam. Và đây là một quá trình dài cần cách tiếp cận nhất quán cả từ nỗ lực khu vực tư nhân và sự hỗ trợ của Chính phủ.
Trước hết, phải có những chuyển biến cải cách mạnh mẽ về thể chế để tiếp tục giải quyết tệ nạn quan liêu trong ứng xử vói kinh doanh, đồng thời đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, nhất là trong tiếp cận đất đai, vốn, thông tin và các yếu tố sản xuất khác cho doanh nghiệp tư nhân.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu vào thị trường toàn cầu, việc thiết lập các cụm liên kết ngành mạnh để doanh nghiệp tư nhân có vị trí kinh doanh thuận lợi sẽ giúp tăng năng suất, thúc đẩy xuất khẩu và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, Việt Nam đã có không ít chính sách và Chính phủ đã thành lập các quỹ hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D), song hiệu quả và tác động lan tỏa về công nghệ còn hạn chế. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, các doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ vị trí hàng đầu trong hoạt động R&D. Chính phủ có thể có các biện pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp và gián tiếp, bao gồm giảm thuế cho các công ty công nghệ cao và cung cấp vốn cho các doanh nghiệp có trải nghiệm tốt được chứng thực.
Điểm không thể không nói tới là việc bắt kịp thời đại Công nghiệp 4.0. Trước hết cần tạo dựng một khung khổ pháp lý thích hợp cùng với sự quyết liệt thực thi, đặc biệt liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh và việc thu hút FDI công nghệ. Thiết lập hệ thống sáng tạo quốc gia lấy doanh nghiệp và thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo làm trung tâm chính là đòn bày cho công cuộc này.
ASEAN có chiến lược cải thiện môi trường kinh doanh để các doanh nghiệp nhỏ và vừa trở nên cạnh tranh, sáng tạo và năng động hơn. Chiến lược đó dựa trên 8 khía cạnh chính sách, đo lường theo Chỉ số Chính sách SME (1. Khung khổ thể chế; 2. Tiếp cận dịch vụ hỗ trợ; 3. Những điều tiết thuận lợi cho khởi nghiệp và SMEs); 4. Tiếp cận tài chính; 5. Công nghệ và chuyển giao công nghệ; 6. Mở rộng thị trường quốc tế; 7. Thúc đẩy giáo dục kinh doanh; 8. Hiệu lực đại diện lợi ích SMEs) . Việt Nam có vị trí trung bình về Chỉ số Chính sách SME so với các nước thành viên ASEAN. Điều đó có nghĩa rằng Việt Nam còn rất nhiều dư địa để hoàn thiện không gian và môi trường cho khu vực tư nhân phát triển.
Khu vực kinh tế tư nhân chính là chúng ta, và vì vậy cần phải có trách nhiệm đặc biệt. Đây thực sự là điều cực kỳ quan trọng đối với kinh tế Việt Nam. Có một khu vực tư nhân năng động và cạnh tranh là một bảo đảm vững chắc cho sự phát triển và thịnh vượng của Việt Nam. Thành công phụ thuộc vào công cuộc hiện thực hóa thể chế đúng đắn và các chính sách hỗ trợ thích hợp.
Cụm liên kết ngành
Hình thành các cụm liên kết ngành (CLKN-industrial clusters) là một hướng đi chính sách cần đặc biệt quan tâm. Nhiều nghiên cứu về CLKN cho thấy các nhân tố tạo ra sự phát triển CLKN bao gồm : môi trường thể chế chuyên nghiệp và thân thiện, thu dụng được nhân tài và một lực lượng lao động có kỹ năng; hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ; sự có mặt của các doanh nghiệp tiên phong, trong đó có vai trò của FDI; và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh thuận lợi. Đồng thời, cần thận trọng với can thiệp nhà nước. CLKN nảy sinh một cách “tự nhiên” và phát triển dưới tác động của thị trường. Chính vì vậy, can thiệp chính sách thường có ích nhất trong giai đoạn đầu của chu kỳ phát triển CLKN. Khéo léo cân bằng giữa chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tiên phong, tập đoàn đa quốc gia và cam kết chuyển giao công nghệ, đào tạo, R&D cũng là một nội dung quan trọng.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Các chaebol Hàn Quốc sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao trong thời kỳ phát triển công nghiệp và cao hơn đáng kể Vingroup của Việt Nam hiện nay - vốn cũng đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp.
(VNF) - Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, việc đánh giá khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn nhiều bất cập khi “gộp chung” doanh nghiệp lớn, nhỏ và hộ kinh doanh để tính toán, từ đó đưa ra kết luận năng suất và hiệu quả thấp.
(VNF) - GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nhấn mạnh, để phát triển công nghệ chiến lược và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần một mô hình hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, viện – trường và doanh nghiệp, trong đó đào tạo nhân lực chất lượng cao là nền tảng then chốt, tạo ra đội ngũ đủ năng lực triển khai chính sách, vận hành công nghệ, và đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường.
(VNF) - Theo các chuyên gia, Việt Nam cần xây dựng một “sandbox” đủ lớn và thể chế tài chính chuẩn quốc tế để thu hút nhà đầu tư chiến lược, củng cố năng lực pháp lý và thúc đẩy hội nhập tài chính toàn cầu.
(VNF) - 80 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã chứng minh chân lý “phi nông bất ổn” khi vừa là trụ đỡ kinh tế, vừa tạo nên những bước ngoặt đưa kinh tế Việt Nam vươn ra thế giới.
(VNF) - Việt Nam đang chứng kiến sự bùng nổ đầu tư vào lĩnh vực giáo dục. Với quy mô hơn 25 triệu học sinh, sinh viên trên toàn quốc trong năm học 2024 - 2025 và tỷ lệ trường mầm non ngoài công lập vượt trội hơn công lập. Lĩnh vực này không chỉ thu hút dòng vốn trong nước mà còn luồng vốn quốc tế lớn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục quốc dân.
(VNF) - PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn - Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng: "Đây có thể coi là thời điểm không thể chậm trễ hơn phải khắc phục những thiếu hụt kể trên, khơi dậy sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân, góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã được đề ra"
(VNF) - Để kinh tế tư nhân thực sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng: Việt Nam cần một “cuộc đổi mới lần hai”. Theo đó, chỉ với một thể chế minh bạch, môi trường bình đẳng và cơ chế khuyến khích đổi mới sáng tạo, khu vực tư nhân mới có thể phát huy đầy đủ vai trò “động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế.
(VNF) - Dù đóng góp gần nửa GDP và tạo việc làm cho hơn 8/10 lao động cả nước, nhiều doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lại chọn “đứng yên” hoặc thu nhỏ quy mô. Tại tọa đàm do Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức sáng 15/8, các chuyên gia đã chỉ rõ nguyên nhân khiến khu vực này “ngại lớn” và đề xuất loạt giải pháp để biến kinh tế tư nhân thành đầu kéo tăng trưởng.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.