Diễn đàn VNF

'Kinh tế phục hồi chậm, cần thời gian bứt phá'

(VNF) - Thừa nhận trong những tháng đầu năm, nền kinh tế đã có những điểm sáng nhất định nhưng PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học Kinh tế TP. HCM, vẫn khẳng định nền kinh tế phục hồi chậm và cần thời gian mới có thể bứt phá”.

'Kinh tế phục hồi chậm, cần thời gian bứt phá'

PGS.TS Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học Kinh tế TP. HCM

- Vậy đâu sẽ là những điểm sáng đáng chú ý trong quý I, thưa ông?

Nền kinh tế trong những tháng đầu năm đã cho thấy những tín hiệu phục hồi tích cực. Theo tôi, điểm sáng đáng chú ý là sự hồi phục của xuất khẩu hàng điện tử và dệt may - là hai nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đóng góp khá lớn vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Bên cạnh đó, nhập khẩu nguyên vật liệu cũng có xu hướng tăng, cho thấy nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất của các doanh nghiệp đang có chiều hướng hồi phục trở lại. Bên cạnh đó, bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng nhẹ so với cùng kỳ, du lịch lữ hành có sự hồi phục tốt khi tận dụng được mùa du lịch đầu năm.

Đây là một số điểm sáng trong bức tranh kinh tế đầu năm. Tuy nhiên, như đã nói, các tín hiệu này cũng cho thấy sự hồi phục vẫn khá chậm và sẽ cần thời gian để kinh tế Việt Nam có thể bứt phá trong giai đoạn tới.

- Vì sao cho đến hiện nay, khi các động lực chính sách đã đủ thời gian để “thấm” vào nền kinh tế nhưng tốc độ phục hồi vẫn chậm?

Tốc độ phục hồi hiện tại của kinh tế Việt Nam đang theo mô hình tuyến tính, và cần thời gian để có thể trở lại như năm 2022. Mặc dù các chính sách đang hỗ trợ rất tốt cho doanh nghiệp và người dân, nhưng sức cầu vẫn tương đối yếu do yếu tố tâm lý khi người dân vẫn đang ưu tiên cho tiết kiệm để phòng ngừa những rủi ro về sinh kế có thể xảy ra trong tương lai hơn là tiêu dùng và đầu tư.

Trạng thái đình lạm diễn ra toàn cầu trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế giảm tốc trong khi ngân hàng trung ương vẫn phải thắt chặt tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát. Đây được xem như là một trạng thái khó điều hành nhất bởi phải đối mặt cả hai yếu tố cùng lúc là đình đốn và lạm phát. Nếu như mở rộng tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng thì càng làm lạm phát trầm trọng thêm trong khi thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát thì lại kìm hãm sự tăng trưởng. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó thì đa số các quốc gia lựa chọn kiềm chế lạm phát (bởi chính sách tiền tệ vẫn theo lạm phát mục tiêu) và chấp nhận đánh đổi sự tăng trưởng, hệ quả là sức cầu của toàn thế giới ảnh hưởng nghiêm trọng và tác động không nhỏ đến xuất khẩu của các quốc gia, trong đó có cả Việt Nam.

- Số doanh nghiệp rời bỏ thị trường vẫn cao hơn số doanh nghiệp mới thành lập trong những tháng đầu năm là minh chứng rõ nhất cho quá trình phục hồi chậm của nền kinh tế, thưa ông?

Đây là những thông tin không mấy khả quan cho kinh tế Việt Nam trong thời điểm hiện tại khi sức cầu yếu kèm với đó là các doanh nghiệp đã kiệt quệ sau một khoảng thời gian dài cầm cự với đại dịch Covid và tiếp ngay sau đó lại là tác động của chiến tranh và xung đột trên thế giới.

Điều này đã làm cho rất nhiều doanh nghiệp không thể sống sót nổi qua giai đoạn này. Kèm với đó, trước tình hình kinh tế bất lợi thì cũng sẽ rất ít doanh nghiệp mở mới và họ sẽ chờ đợi thời điểm thích hợp hơn để thành lập doanh nghiệp và kinh doanh trong tương lai.

- Ngoài những nỗi lo trên, liệu chúng ta còn phải đối diện với những nỗi lo nào nữa?

Một tin không vui là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) vẫn giữ nguyên mức lãi suất cao nhất trong vòng 20 năm qua để tiếp tục mục tiêu kiểm soát lạm phát và nhiều khả năng sẽ không có đợt cắt giảm lãi suất nào cho đến giữa năm 2024. Điều này sẽ làm cho tình hình kinh tế thế giới vẫn sẽ ở trạng thái hồi phục chậm, thậm chí có thể rơi vào suy thoái ngắn do lãi suất cao và các ngân hàng trung ương vẫn sẽ phải duy trì các chính sách thắt chặt tiền tệ giống như FED để tránh dòng tiền chảy ra khỏi quốc gia hay các vấn đề về vĩ mô khác.

Và nếu như sự phục hồi kinh tế thế giới chậm thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị tác động. Việc kỳ vọng xuất khẩu hồi phục mạnh mẽ trong năm nay sẽ khó khăn hơn rất nhiều trước diễn biến kinh tế thế giới hiện tại. Bên cạnh đó, việc các cuộc xung đột ở Trung Đông, đặc biệt là ở tuyến đường hàng hải trên biển Đỏ, cũng sẽ là một mối lo ngại lớn về thương mại toàn cầu cũng như ảnh hưởng đến giá dầu. Một cú sốc về phía cung có thể tiếp tục xảy ra nếu như các cuộc xung đột trở nên căng thẳng và vượt tầm kiểm soát.

Cùng với đó, cũng cần đánh giá khách quan rằng việc phục hồi chậm của kinh tế thế giới và chính sách tiền tệ của FED sẽ không có quá nhiều thay đổi trong năm 2024 sẽ là rào cản cho bức tranh tăng trưởng tín dụng lẫn kinh tế trong năm nay của Việt Nam, cũng như nhiều khả năng tăng trưởng tín dụng sẽ không đạt được mức chỉ tiêu đề ra trong năm nay. Tất nhiên, nếu như nền kinh tế nếu nền kinh tế phục hồi tốt thì điều này sẽ không xảy ra.

- Vậy đâu sẽ động lực cho kinh tế Việt Nam trong năm 2024?

Động lực chính vẫn sẽ là xuất khẩu, bởi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn và rất dễ bị ảnh hưởng bởi bất kỳ cú sốc nào từ bên ngoài. Và xuất khẩu sẽ đóng vai trò là động lực, là bệ đỡ chính. Nếu như ví xuất khẩu, tiêu dùng trong nước và đầu tư công là tam mã kéo cỗ xe kinh tế Việt Nam đi lên, thì con đi đầu sẽ là xuất khẩu, khi xuất khẩu phục hồi thì nó sẽ tiếp thêm động lực cho tiêu dùng trong nước lẫn đầu tư công bứt phá, và từ đó đưa nền kinh tế tăng trưởng theo.

Để đưa nền kinh tế trở về trạng thái toàn dụng trong dài hạn với thất nghiệp thấp và lạm phát thấp thì cần phải tiếp tục duy trì các chính sách nới lỏng hiện tại cả về tài khóa và tiền tệ.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần nghiên cứu tung ra các gói nới lỏng định lượng trong dài hạn. Việc nền kinh tế được khơi thông nguồn vốn dài hạn sẽ giúp cho người dân và doanh nghiệp tự tin hơn trong tiêu dùng và đầu tư, từ đó thúc đẩy tổng cầu và hỗ trợ cho tăng trưởng.

- Theo ông, làm thế nào để hoá giải những khó khăn, thách thức trên?

Theo tôi, không thể quá nóng vội để mong muốn năm nay sẽ là một sự phục hồi kinh tế mang tính đột phá bởi sẽ không có quá nhiều biến số tích cực có thể xoay chuyển cục diện hiện tại.

Chính vì thế, bên cạnh việc đề ra các giải pháp chính sách mang tính ngắn hạn như hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp và người dân, thực hiện chính sách tài khóa mở rộng bằng cách giảm mạnh các khoản thuế đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân, đồng thời có thể cân nhắc về chính sách hoàn thuế cho người dân để kích cầu tiêu dùng, chúng ta cũng cần tập trung cho các chiến lược dài hạn hơn.

Đây là thời điểm thích hợp để tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chuyên môn hóa, tập trung vào việc cải thiện năng suất lao động của toàn nền kinh tế, để có thể gia tăng năng lực sản xuất của quốc gia trong dài hạn, hướng tới một sự phát triển theo chiều sâu và bền vững hơn trong tương lai. Như nhà kinh tế học Paul Krugman đã nói: “Năng suất không phải là tất cả, nhưng trong dài hạn, năng suất gần như là tất cả”!

Tin mới lên