Tác động của đại dịch Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam: Một số khuyến nghị
TS. Cấn Văn Lực -
01/09/2020 14:26 (GMT+7)
(VNF) - Từ đầu năm 2020, dịch Covid-19 có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, đẩy thế giới và nhiều nước rơi vào khủng hoảng kéo về y tế và kinh tế. Số ca nhiễm trên thế giới đã tăng nhanh từ 850.000 ca cuối tháng 3 lên hơn 20 triệu ca nhiễm vào cuối tháng 8 với gần 1 triệu ca tử vong.
Đến nay, dịch bệnh Covid-19 chưa có dấu hiệu dừng lại, thậm chí tại một số nước đã xuất hiện làn sóng thứ 2. Hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch và sản xuất - kinh doanh (cả phía cung và cầu) tiếp tục bị đình trệ hoặc hồi phục yếu ớt; tâm lý người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư bị tác động đáng kể, kinh tế thế giới đã chính thức bước vào suy thoái với GDP quý II của Mỹ giảm -9,5% so với cùng kỳ năm trước, khu vực đồng euro -15%, Đức -11,7%, Pháp -19% (theo OECD), Hàn Quốc -2,9%, Singapore -12,6%...; và IMF dự báo cả năm GDP toàn cầu tăng trưởng -4,9%, WB dự báo -5,2%.
Rõ ràng tác động của đại dịch Covid-19 đến kinh tế - xã hội toàn cầu là rất nặng nề, khiến kinh tế toàn cầu suy giảm gấp 3 lần so với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 (khi đó, GDP toàn cầu năm 2009 tăng trưởng -1,7%).
Trong bối cảnh đó, Việt Nam là một trong số ít các nước vẫn giữ mức tăng trưởng dương (+1,81% trong nửa đầu năm 2020) và được Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo có thể trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao thứ 5 thế giới năm 2020. Mặc dù vậy, tốc độ tăng trưởng GDP giảm mạnh từ 3,82% trong quý I xuống 0,36% trong quý II đã phản ánh tác động của Covid-19 đối với kinh tế Việt Nam ngày càng rõ nét và nghiêm trọng hơn nhiều; một phần do nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, dễ bị tổn thương khi vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu đầu vào cũng như thị trường tiêu thụ của một số đối tác chính; trong đó, thương mại quốc tế, đầu tư, tiêu dùng trong nước, du lịch-lữ hành, khách sạn, vận tải - kho bãi… là những ngành chịu tác động rõ nét nhất.
Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam đã chịu tác động tiêu cực từ dịch Covid-19, thể hiện qua một số lĩnh vực chính trong 7 tháng đầu năm 2020 như sau.
Thứ nhất, lĩnh vực tiêu dùng (thể hiện qua tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ) đạt 2.799,6 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4% (giảm 4,8% nếu loại trừ yếu tố giá) so với cùng kỳ năm trước (so với mức tăng 11,6% cùng kỳ năm 2019); trong đó, doanh thu bán lẻ ước tăng 3,6% (thấp hơn nhiều so với mức tăng 10% cùng kỳ năm 2019), doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống giảm 16,6% (cùng kỳ năm trước tăng 10,1%), doanh thu du lịch lữ hành giảm 55,4% (cùng kỳ năm trước tăng 10,1%), chứng tỏ sức cầu nội địa phục hồi song vẫn còn yếu.
Thứ hai, dịch Covid-19 làm ngưng trệ hoạt động sản xuất - kinh doanh của khu vực công nghiệp, sản xuất chế biến - chế tạo và tác động tiêu cực ngày càng rõ nét. Tính chung 7 tháng đầu năm 2020, tăng trưởng của khu vực công nghiệp - xây dựng có xu hướng giảm dần từ 5,15% trong quý I (so với cùng kỳ năm trước) xuống 2,98% trong quý II và chỉ còn 2,6% lũy kế 7 tháng. Nguyên nhân chủ yếu là do sự đứt gẫy của chuỗi cung ứng nguyên vật liệu sản xuất toàn cầu do tác động của dịch bệnh. Cụ thể, sự đứt gẫy này đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng của các ngành kinh tế như sản lượng của ngành khai khoáng giảm 42,7%, sản xuất phương tiện vận tải giảm 15,4%, dầu khí giảm 11,3%, sản xuất máy móc giảm 6,1%, sản xuất đồ uống giảm 6,3%...
Thứ ba, dịch Covid-19 tác động tiêu cực tới nhập khẩu hàng hóa (so sức cầu yếu và gián đoạn chuỗi cung ứng), trong khi xuất khẩu tăng nhẹ khiến cán cân thương mại thặng dư. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm đạt 145,79 tỷ USD, tăng nhẹ 0,2% so với cùng kỳ 2019; tuy nhiên kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt 139,3 tỷ USD, giảm - 2,9%, khiến thặng dư thương mại đạt 6,5 tỷ USD (mức cao nhất trong 4 năm qua), nhờ mức tăng trưởng của các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ (+15%), Trung Quốc (+18,4%) bù đắp được sự sụt giảm của thị trường ASEAN (-15,4%), Nhật Bản (-5%), Hàn Quốc (-0,4%).
Thứ tư, dịch Covid-19 khiến dòng vốn FDI toàn cầu và vào Việt Nam giảm. Vốn FDI đăng ký vào Việt Nam 7 tháng đầu năm đạt 18,8 tỷ USD, giảm -6,9% so với cùng kỳ năm trước (tuy giảm, nhưng cũng là đáng khích lệ khi dự báo dòng vốn FDI toàn cầu năm nay giảm khoảng 40%) và đây cũng là mức giảm thấp hơn so với 6 tháng đầu năm (-15,1%). Về giải ngân, vốn FDI thực hiện sau 7 tháng đạt 10,1 tỷ USD, giảm -4,1% so với cùng kỳ năm 2019 (mức giảm nhẹ hơn so với 6 tháng đầu năm là –5%), cho thấy xu hướng phục hồi và Việt Nam cũng đang tận dụng cơ hội dịch chuyển dòng vốn đầu tư.
Thứ năm, hoạt động doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn: bối cảnh nhu cầu tiêu dùng trong nước và hoạt động xuất khẩu phục hồi chậm gây ra nhiều thách thức cho hoạt động doanh nghiệp trong nước. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới lũy kế 7 tháng giảm -5,1% so với cùng kỳ, số việc làm tạo mới giảm -19,5%, đặc biệt, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động kinh doanh là 32,7 nghìn doanh nghiệp (tăng 41,5% so với cùng kỳ), chứng tỏ doanh nghiệp còn rất khó khăn; đòi hỏi các gói hỗ trợ của Chính phủ cần được quyết liệt triển khai nhanh, trúng và hiệu quả hơn nữa, và đẩy mạnh cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư - kinh doanh.
Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2020
Trước diễn biến dịch Covid-19 còn rất phức tạp trên thế giới và tại Việt Nam, chúng tôi đánh giá triển vọng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam đến hết năm 2020 (theo cả phía tổng cầu và tổng cung) với 3 kịch bản (cơ sở, tích cực và tiêu cực).
Với kịch bản cơ sở, các động lực tăng trưởng chính của kinh tế Việt Nam như xuất khẩu, tiêu dùng, đầu tư tư nhân, FDI và du lịch...v.v. đều chịu ảnh hưởng tiêu cực trong bối cảnh dịch bệnh lan rộng toàn cầu và Việt Nam hội nhập sâu rộng. Theo kịch bản này, chúng tôi nhận định, các biện pháp của Chính phủ trong phòng chống dịch tiếp tục được các Bộ, Ngành, địa phương chú trọng triển khai cùng với các chính sách, gói hỗ trợ nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân phát huy hiệu quả; các nước và Việt Nam kiểm soát được dịch trong quý III/2020, không để bùng phát “làn sóng Covid-19 thứ 2 ở diện rộng” và bắt đầu mở cửa giao thương, du lịch quốc tế có chọn lọc từ đầu quý IV/2020.
Tuy nhiên, một số ngành sẽ có sự hồi phục chậm hơn do còn phụ thuộc vào diễn biến dịch tại một số nước và khu vực, tâm lý và hành vi của người tiêu dùng, nhà đầu tư và doanh nghiệp. Với kịch bản này, tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 đạt khoảng 3% (trong đó quý III ước tăng 4,5% và quý IV ước tăng 4,61%).
Với kịch bản tích cực, các nước trên thế giới và Việt Nam nỗ lực kiểm soát và sớm đạt được kết quả tích cực trong phòng, chống dịch bệnh và đại dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát vào cuối tháng 8/2020; hoạt động giao thương, sản xuất - kinh doanh được khôi phục từ cuối quý III/2020. Theo kịch bản này, dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 có thể đạt 4%.
Với kịch bản tiêu cực, “làn sóng dịch Covid-19 thứ 2 diễn ra ở diện rộng” trên toàn cầu và chỉ có thể kiểm soát cho đến hết năm 2020. Còn tại Việt Nam, dịch bệnh diễn biến phức tạp, làn sóng thứ hai lây lan rộng song vẫn kiểm soát được tình hình dịch bệnh cho đến hết quý III/2020, nhưng các đối tác quan trọng của Việt Nam (như Mỹ, Trung Quốc, EU, ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc…) còn gặp nhiều khó khăn; các hoạt động giao thương tiếp tục bị ngưng trệ, tiêu dùng nội địa tiếp tục giảm nhẹ khi người dân ưu tiên tiết kiệm, thay đổi mạnh hành vi tiêu dùng trong bối cảnh kinh tế khó khăn đến hết năm 2020. Theo đó, dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 chỉ đạt khoảng 1,5%.
Bên cạnh dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ phía tổng cầu, chúng tôi cũng thực hiện dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2020 từ phía tổng cung với cùng giả định và các tác động của đại dịch đối với kinh tế thế giới và Việt Nam. Theo đó, với kịch bản cơ sở, tăng trưởng GDP năm 2020 đạt khoảng 3% nhờ sự đóng góp của khu vực Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản (tăng trưởng 1,27% so với năm 2019), khu vực Công nghiệp - Xây dựng tăng trưởng khoảng 3,6% và khu vực dịch vụ tăng khoảng 2%.
Trong cả 3 kịch bản, chúng tôi dự báo lạm phát (CPI) bình quân năm 2020 dù đang ở mức 4,07% trong 7 tháng đầu năm nhưng vẫn có thể kiểm soát dưới 4% (khoảng 3,5-3,8%) cả năm 2020 với 3 lý do chính: (i) sức cầu quốc tế và trong nước còn yếu, nên lạm phát do yếu tố cầu kéo ở mức thấp, (ii) giá dầu dù đang tăng trở lại, nhưng bình quân cả năm vẫn giảm khoàng 20-25% so với bình quân năm 2019, giảm mạnh yếu tố chi phí đẩy, và (iii) giá thịt lợn dù còn biến động (tăng nhẹ) nhưng về cơ bản sẽ ổn định dần đến hết năm 2020.
Như vậy, tùy theo diễn biến của dịch Covid-19 tại Việt Nam và trên thế giới, sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống, kinh tế Việt Nam năm 2020 theo kịch bản cơ sở có thể đạt mức tăng trưởng 3% (hoặc từ 1,5% với trường hợp xấu nhất đến 4% với trường hợp tích cực nhất). Kết quả lượng hóa này của chúng tôi cũng khá tương đồng với kết quả dự báo gần đây nhất (6/2020) của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, OECD. Theo đó, các tổ chức dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 ở mức 2,7% (theo IMF) đến 2,8% (theo WB) hay khả quan hơn ở mức 4,1% như dự báo của ADB (tháng 6/2020).
Tuy nhiên, với diễn biến của dịch Covid-19 xuất hiện trở lại tại Việt Nam như hiện nay, chúng tôi thiên về kịch bản tiêu cực nhiều hơn. Theo đó, nếu dịch bệnh không được nhanh chóng kiểm soát ngay trong tháng 8 mà kéo dài đến hết tháng 9/2020, dự báo kinh tế Việt Nam năm 2020 chỉ có thể đạt mức tăng trưởng khoảng 1,5-2%. Đây là mức thấp hơn so với dự báo 2,8% ngày 30/7/2020 của WB; tuy nhiên cần lưu ý là dự báo của WB dựa trên giả định Việt Nam kiểm soát tốt dịch bệnh và không để phát sinh làn sóng lây nhiễm thứ hai.
Một số khuyến nghị
Qua đánh giá tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 tới kinh tế - xã hội thế giới và Việt Nam; theo chúng tôi, việc đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,8% năm nay là không khả thi. Tuy nhiên, việc Việt Nam phấn đấu đạt được mục tiêu kép: “phòng chống dịch Covid-19 thành công và đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội ở mức khả quan tối đa”, như tăng trưởng GDP đạt khoảng 2% (phấn đấu 3%), kiểm soát lạm phát CPI dưới 4% coi như là thành công và đáng ghi nhận. Theo đó, chúng tôi kiến nghị 7 giải pháp trong năm 2020-2021 như sau:
Một là, cần nhanh chóng, quyết liệt kiểm soát dịch bệnh, không để xảy ra làn sóng lây nhiễm thứ 2 ở diện rộng và coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và cần được ưu tiên, quyết liệt thực hiện. Việc kiểm soát được dịch bệnh sẽ quyết định tới mục tiêu ổn định kinh tế-xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hai là, cần tập trung đẩy nhanh tiến độ và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp; theo đó, cần: (i) khẩn trương tháo gỡ những vướng mắc (như trong gói 16 nghìn tỷ đồng cho vay lãi suất 0% để DN có thể trả lương); (ii) xem xét sớm quyết định cho phép gia hạn thời gian giãn, hoãn thuế, tiền thuê đất (trước mắt là hết năm 2020) để doanh nghiệp đỡ khó khăn về thanh toán chi phí;
(iii) sửa đổi Thông tư 01 của NHNN theo hướng gia hạn thời gian giãn, hoãn nợ (đến hết năm 2020) và mở rộng đối tượng được hỗ trợ; (iv) tăng khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV bằng cách tăng cho vay qua Quỹ phát triển DNNVV và khởi động hoạt động thực chất của các quỹ bảo lãnh vay vốn DNNVV,
(v) mở rộng đối tượng hỗ trợ gồm cả 1 số doanh nghiệp lớn và vừa như trong lĩnh vực hàng không, du lịch… (như nhiều nước đang làm), với tiêu chí và điều kiện hỗ trợ cụ thể (quy mô gói tài khóa tăng thêm cho các đầu việc nêu trên có thể khoảng 1-2% GDP);
(vi) rà soát các đối tượng được hỗ trợ trong các ngành chịu ảnh hưởng lớn bởi dịch bệnh Covid-19 như du lịch, vận tải - kho bãi, bán lẻ, dệt may, giáo dục đào tạo... để bổ sung kịp thời. Khi đó, tổng giá trị các gói hỗ trợ của Việt Nam khoảng 4-5% GDP. Đồng thời, cần đề xuất có cơ chế, phân quyền đặc thù cho Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ để có thể ra quyết định nhanh chóng, kịp thời.
Ba là, chuẩn bị tâm thế đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các thị trường còn nhiều dư địa ngay sau khi dịch được kiểm soát như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN, Hoa Kỳ và EU. Đây là 6 thị trường lớn chiếm đến 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; nhất là trong bối cảnh hiệp định EVFTA giữa Việt Nam - EU có hiệu lực từ 1/8/2020. Trước mắt, cần đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc - một thị trường đang phục hồi nhanh và truyền thống của Việt Nam.
Bốn là, đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công như là một giải pháp bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng trong năm 2020 và cũng là động lực tăng trưởng dài hạn. Theo đó, cần kiên quyết giao trách nhiệm cho người đứng đầu, đẩy nhanh giải phóng mặt bằng, bố trí kịp thời nguồn vốn đối ứng và đẩy nhanh tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA; rà soát, ưu tiên cho các dự án trọng điểm, các dự án phát triển CSHT, y tế, giáo dục, có tính lan tỏa cao, tạo nhiều việc làm; không vì mục tiêu thúc đẩy giải ngân nhanh mà gây lãng phí, kém hiệu quả.
Năm là, tận dụng cơ hội dịch chuyển chuỗi cung ứng và vốn đầu tư để thu hút FDI có sàng lọc. Cụ thể: (i) Sớm xây dựng và công bố chính sách thu hút dịch chuyển dòng vốn đầu tư; (ii) Rà soát toàn bộ các khu công nghiệp (KCN) để có điều chỉnh linh hoạt về KCN cần ưu tiên mở rộng hoặc xây mới, KCN cần thu hẹp, thu lại; công bố danh sách các KCN sẵn sàng về quỹ đất sạch, CSHT…;
(iii) Rà soát, cập nhật, điều chỉnh phù hợp phân cấp phê duyệt đầu tư, tinh gọn qui trình thủ tục về đầu tư nước ngoài, công bố một cách công khai, minh bạch; (iv) Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện chiến lược, hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh mới gắn với công nghệ số (đây cũng là lĩnh vực NĐT nước ngoài rất quan tâm); và (v) Có chính sách, gói hỗ trợ đào tạo nhân lực có tay nghề (nguồn tài trợ từ cả TW và địa phương).
Sáu là đẩy mạnh kích cầu thị trường nội địa: quy mô tiêu dùng cá nhân của Việt Nam tương đương gần 80% GDP và đóng góp 11,87% GDP năm 2019. Cụ thể, nên tập trung kích cầu vào một số ngành, lĩnh vực như du lịch, bán lẻ, vận tải, lưu trú, ăn uống, chăm sóc sức khỏe, giáo dục…
Cuối cùng là, đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế số, Chính phủ điện tử và thanh toán, giao dịch điện tử; vừa là để tăng năng suất lao động, vừa là theo kịp xu thế và giảm rủi ro lây lan dịch bệnh do tương tác trực tiếp.
(VNF) - Ông Nguyễn Hồ Ngọc - Giám đốc đào tạo ATC Academy cho rằng, "mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ nặng tay với nhóm biên lợi nhuận thấp và nhẹ tay với nhóm biên lợi nhuận cao".
(VNF) - TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, hiện còn quá nhiều đầu mối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vai trò chưa tương xứng, nói là chủ đạo nhưng chưa cho nhóm này phát triển. Do đó, ông Cung kiến nghị tái cơ cấu, chỉ cần dưới 100 nhưng quy mô tăng gấp 10 – 15 lần.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Ông Nguyễn Hồ Ngọc - Giám đốc đào tạo ATC Academy cho rằng, "mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ nặng tay với nhóm biên lợi nhuận thấp và nhẹ tay với nhóm biên lợi nhuận cao".
(VNF) - Gần 3ha đất nông nghiệp của Tân Á Đại Thành ở quận Hoàng Mai cũ (Hà Nội) được chuyển đổi mục đích sử dụng để thực hiện tổ hợp nhà ở, văn phòng.