Cấm mở ví điện tử nặc danh, mạo danh, dùng ví điện tử cho mục đích rửa tiền, gian lận, lừa đảo

Bảo Duy - 18/04/2019 18:48 (GMT+7)

(VNF) - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang dự thảo Thông tư Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán.

VNF
Cấm mở ví điện tử nặc danh, mạo danh, dùng ví điện tử cho mục đích rửa tiền, gian lận, lừa đảo. (Ảnh minh họa)

Theo NHNN, Dự thảo Thông tư sửa đổi quy định để làm rõ phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. Theo đó, phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Thông tư là các tổ chức không phải là ngân hàng (non-banks) cung ứng dịch vụ ví điện tử; không bao gồm trường hợp các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong vai trò là tổ chức phát hành ví điện tử.

Theo đó, Dự thảo bổ sung Điều 6a về các hành vi bị cấm như: sử dụng ví điện tử để thực hiện các giao dịch cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận và các hành vi vi phạm pháp luật khác; mua, bán, thuê, cho thuê, chuyển nhượng ví điện tử hoặc thông tin ví điện tử, mở hộ ví điện tử; mở hoặc duy trì ví điện tử nặc danh, mạo danh.

Cùng với đó là các hành vi: làm giả, tẩy xóa, chuyển nhượng, cho thuê, cho mượn giấy phép; ủy thác, giao đại lý cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoạt động được phép theo giấy phép;...

Theo NHNN, Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung quy định về các hành vi bị cấm nhằm ngăn chặn việc lợi dụng dịch vụ ví điện tử, giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để tổ chức hoặc tham gia thực hiện các hoạt động rửa tiền, lừa đảo, gian lận và các hoạt động vi phạm quy định của pháp luật khác.

Dự thảo cũng sửa đổi, bổ sung Điều 8 về việc đảm bảo khả năng thanh toán. Theo đó, tổ chức cung ứng dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ phải thỏa thuận với ngân hàng hợp tác về các biện pháp đảm bảo khả năng thanh toán cho việc cung ứng dịch vụ này, bao gồm việc mở tài khoản đảm bảo thanh toán cho dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ hoặc duy trì khoản tiền ký quỹ tại ngân hàng hoặc các biện pháp đảm bảo khác. Ngân hàng hợp tác là đơn vị chịu trách nhiệm cuối cùng đối với việc đảm bảo khả năng thanh toán cho các đơn vị chấp nhận thanh toán.

Tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải mở tài khoản đảm bảo thanh toán để đảm bảo cho việc cung ứng dịch vụ này. Tài khoản đảm bảo thanh toán cho dịch vụ ví điện tử phải tách bạch với tài khoản đảm bảo thanh toán cho việc cung ứng dịch vụ hỗ trợ thu hộ, chi hộ (nếu có) và tách bạch với các tài khoản thanh toán khác tại ngân hàng.

Tổng số dư trên tài khoản đảm bảo thanh toán cho dịch vụ ví điện tử phải được duy trì không thấp hơn so với tổng số dư của tất cả các ví điện tử của các khách hàng tại thời điểm kết thúc ngày giao dịch.

Cũng theo Dự thảo, tài khoản đảm bảo thanh toán cho dịch vụ ví điện tử chỉ được sử dụng vào việc: thanh toán tiền cho các đơn vị chấp nhận thanh toán; chuyển đến tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ liên kết với ví điện tử của khách hàng; hoàn trả tiền cho khách hàng khi có yêu cầu đóng ví điện tử hoặc trong trường hợp tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử ngừng hoạt động, bị thu hồi giấy phép, giải thể hoặc phá sản.

Bên cạnh đó, tổ chức cung ứng dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán phải có thỏa thuận với ngân hàng hợp tác về việc trả lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cho số dư tài khoản đảm bảo thanh toán (nếu có) và việc trả, thu các khoản phí phát sinh khi cung ứng các dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thanh toán và các dịch vụ trung gian thanh toán khác (nếu có) tách bạch với việc sử dụng tài khoản đảm bảo thanh toán.

Cùng chuyên mục
Tin khác