(VNF) - Giao thương trao đổi đã xuất hiện ở loài người từ thời cổ đại. Buôn bán ngày càng mở rộng khi có các phương tiện giao thông, từ lừa, ngựa thồ, đến xe ngựa kéo. Tuy nhiên, từ khi con người phát minh ra các loại tàu thuyền chuyên chở đường sông thì giao thương mới ngày càng phát triển và mở rộng phạm vi ra các quốc gia khác.
Ảnh minh hoạ
Do đó, từ thời xưa, ở nước ta, việc buôn bán với nước ngoài đều phải dựa vào sông biển. Những truyện cổ tích liên quan đến chuyện buôn bán với những đối tác lạ “ngoại lai” đều diễn ra ở ven sông, gần biển, hay ngoài hải đảo, như chuyện Tiên Dung – Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm…
Mặc dù vậy, để bảo đảm an ninh, thời Trần, Lê, đã quy định thuyền buôn nước ngoài chỉ được vào trang Vân Đồn để neo đậu, buôn bán. Ngược lên thời Lý, sử sách có ghi chuyện lái buôn từ nước Trảo Oa (tức đảo Java, Indonesia ngày nay) vượt biển đến dâng Ngọc châu dạ quang lên vua Lý Thánh Tông năm 1066, được nhà vua trả cho một vạn quan tiền. Mặc dù vậy, lần đó sử không ghi thuyền buôn nước họ được phép neo đậu ở đâu.
Sau này, ở miền Nam, các khu tập trung thương nhân nước ngoài buôn bán cũng nằm ven những con sông lớn, như sông Hoài (Hội An), hay sông Đồng Nai (Cù lao Phố)…
Còn vào thời Trần, việc quy định lái buôn nước ngoài được đến trang Vân Đồn (thời đó là lộ An Bang, nay là Quảng Ninh) để buôn bán, triều đình lập ra các cơ quan quản lý chặt chẽ và thu thuế đầy đủ. Như thời Trần Khánh Dư làm tướng trấn thủ Vân Đồn, tha hồ tác oai với thương nhân trong ngoài nước, vơ vét đủ các mối buôn bán.
Lệnh cấm buôn bán vụng trộm với nước ngoài đã được áp dụng từ đầu thời Lê sơ. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, khi vua Lê Thái Tông mới lên ngôi, năm 1435, triều đình đã xử phạt Tổng quản lộ An Bang là Nguyễn Tông Từ và Đồng tổng quản Lê Dao đều phải biếm 3 tư (tức hạ 3 bậc trong ngạch bậc quan chức, mỗi bậc có 4-5 “tư”), bãi chức vì vi phạm lệnh cấm này. “Bấy giờ, có thuyền buôn Trảo Oa đến trấn Vân Đồn, bọn Tông Từ giữ việc xét ghi số hàng hóa trong thuyền, trước đã báo nguyên số rồi, sau lại gian lận đổi làm bản khác, mà bán trộm đi hơn 900 quan tiền, cùng với Lê Dao, mỗi người chiếm hơn 100 quan”, “Toàn thư” chép. Việc bị phát giác, nên cả hai đều bị trị tội.
Theo ghi chép trong sử sách thời Lê sơ và bộ “Quốc triều hình luật” (còn gọi là Luật Hồng Đức), thì tại các cửa biển, triều đình đặt quan Sát hải sứ để kiểm soát tàu bè, cùng các ty An phủ và Đề bạc để kiểm soát buôn bán và đi lại của các thuyền buôn, thương nhân. Theo luật thời Lê, người dân và quan lại vùng duyên hải tự ý mua hàng hoá của người nước ngoài hoặc đón tiếp các thuyền buôn thì sẽ bị nghiêm trị, phạt tiền rất nặng, từ 50 quan đến 200 quan.
Chương Tạp luật, bộ Luật Hồng Đức, điều 612 quy định: Các quan ty vô cớ mà đi riêng ra những trang ngoài Vân Đồn, các trấn cửa quan ải thì xử tội đồ hay lưu; thưởng cho người tố cáo được một tư.
Điều 613 bộ luật này quy định rõ hơn: Những quân lính các trấn ven biên giới, cùng các trang vùng duyên hải mà giấu giếm chở người nước ngoài vào kinh thành, thì xử biếm năm tư; không có quan chức thì xử tội đồ làm chủng điền binh (lao dịch tại đồn điền của nhà nước) và phạt tiền 100 quan; thưởng cho người tố giác một phần ba. Quan trông coi và chủ trang vô tình không biết, thì xử biếm một tư.
Việc cấm dỡ lậu hàng buôn ngoại quốc được điều 614 định rõ: Những trang trại ở ven bờ bể, mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hóa lên bờ, thì xử biếm ba tư, phải phạt gấp ba tang vật để sung công, lấy một phần thưởng cho người tố giác. Người chủ trang trại ấy mất chức giám trang.
Về việc đưa hàng hóa nước ngoài lên kinh thành buôn bán thời Lê được quy định tại điều 615 của Luật Hồng Đức: Người ở trang Vân Đồn mà chở hàng hóa Trung Quốc lên kinh thành mà không có giấy của An Phủ ty cấp cho, khi đến bến Triều Đông lại không đến cho Đề bạc ty kiểm soát, đã đem đi bán lén lút, cùng là khi về không có giấy của Đề bạc ty cấp cho; đến chỗ Thông mậu trường lại không đến cho An Phủ ty kiểm soát, mà đã về thẳng trang, thì đều phải biếm một tư và phạt tiền 100 quan; thưởng người tố cáo một phần ba. Nếu đem hàng hóa tới các nơi bán giấu, thì xử biếm ba tư, phạt tiền 200 quan. An Phủ ty, Đề bạc ty vô tình không biết đều phải biếm một tư, cố ý dung túng thì biếm một tư và bãi chức.
Thời Lê bắt đầu có việc cho phép khách buôn nước ngoài được mở cửa hàng buôn bán ở Phố Hiến (Hưng Yên) và kinh thành. Phố Hiến ngày càng sầm uất, nổi danh trong câu ca “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Ở đây, ngoài khách buôn Trung Quốc, còn có cả thương nhân từ Hà Lan, Ma Cao, Ấn Độ, Nhật Bản…
Sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi viết về đất Thượng kinh (Thăng Long) với một phường của khách buôn nước ngoài: “Phường Đường Nhân bán áo diệp y” và chú thích: “Đường Nhân là phố khách thương Quảng Đông, Quảng Tây ở. Diệp y là thứ áo người Trung Quốc mặc, áo trong thì tay áo, thân áo đều dài, áo ngoài thì tùy thứ tự mà quấn lên, trông tựa lá màu xanh biếc”.
Tuyến đường đưa thương nhân ngoại quốc đến với Kinh thành Thăng Long hoặc Phố Hiến đều dựa theo dòng sông Hồng. Phố Hiến, khu phố có nhiều cửa hàng của thương nhân ngoại quốc đến buôn bán tấp nập thời Lê trung hưng, được mô tả trong bộ sử chí “Đại Nam nhất thống chí”, do Quốc sử quán triều Nguyễn, biên soạn dưới thời vua Tự Đức, như sau: “Phố Bắc Hòa thượng và hạ đều ở phía Tây Nam huyện Kim Động. Đời Lê, Vạn Lai Triều và dinh Hiến Nam đều ở đây; hai phố này nhà ngói như bát úp, là nơi người Trung Quốc hội tụ buôn bán. Lại có phố Nam Hòa, người Trung Quốc ở, đối diện với phố Bắc Hòa”.
Theo sách “An Nam ký du” của Phạm Đỉnh Khuê, năm 1688 đi qua Hiến Hội (Phố Hiến) thì “Ở đây dừng lại tất cả thuyền bè nước ngoài từ bốn phương đến buôn bán với đằng ngoài”.
Về việc kiểm soát thuyền buôn, điều 616 quy định: Thuyền bè ngoại quốc đến trang Vân Đồn buôn bán, mà quan Sát hải sứ (quan khám xét các thuyền bè) đi riêng ra ngoài cửa bể soát trước, thì xử biếm một tư. Thuyền buôn ấy muốn đậu lại lâu, thì trang chủ phải làm giấy trình An Phủ ty làm bằng mới được ở lại; nếu trang chủ không trình mà tự ý cho ở lại, thì xử biếm hai tư và phạt tiền 200 quan; thưởng cho người tố cáo một phần ba.
Ngoài các dãy phố buôn bán của thương nhân Trung Quốc và cả đại diện công ty Đông Ấn, Hà Lan trong kinh thành, theo những ghi chép vào năm 1650, các lái buôn Trung Quốc vẫn được phép cư trú và buôn bán ở Thanh Trì và Khuyến Lương, cũng đều là những bến thuyền ven sông Hồng cách kinh thành không xa.
Quy định về việc giám sát tàu buôn từ Phố Hiến lên Thăng Long khá chặt chẽ: “Khi các tàu trưởng của những tàu đậu ở Vạn Lai Triều (Phố Hiến), muốn đến kinh sư để bệ kiến chúa thượng, họ phải được viên quan trông nom về việc đó khám xét và kiểm tra, và được viên quan đó cho người dẫn đi. Sau khi xong việc, họ phải quay về Lai Triều”.
Bên cạnh các thương nhân Trung Quốc, các lái buôn Hà Lan đã giong thuyền đến Phố Hiến từ thế kỷ XVII. Họ thường mang bạc, đồng đến mua đổi lấy các loại tơ hoặc vải lụa. Hương điếm của Công ty Đông Ấn Hà Lan là ngôi nhà đầu tiên ở Phố Hiến được xây bằng gạch, nằm sát bờ sông Hồng. Trong những năm đầu, người Hà Lan làm ăn khá phát đạt. Nhưng sau đó, các thương nhân người Anh cạnh tranh mạnh nên các thương nhân Hà Lan dần bị lép vế. Ngoài ra, ở Phố Hiến còn có các thương nhân Bồ Đào Nha, nhưng họ là những thương nhân độc lập, không lập công ty, không đặt thương điếm. Các thương nhân người Pháp cũng đã có mặt ở đây, với sự xuất hiện của Công ty Đông Ấn thuộc Pháp được lập tại Phố Hiến vào năm 1680.
Ở Phố Hiến còn có thương nhân Nhật thường mang bạc, đồng đến mua đổi lấy các loại tơ hoặc vải lụa. Có những người Nhật định cư lâu dài, đã chuyển sang làm một số nghề như hoa tiêu dẫn tàu vào cửa sông, phiên dịch, môi giới. Theo mô tả của các nhân chứng đương thời, các thuyền mành bằng gỗ của Trung Quốc, Xiêm La và các nước châu Á khác có thể neo đậu sát bờ sông Hồng, còn thuyền Châu Âu to lớn hơn nhiều, thường neo ở vùng nước sâu giữa sông.
Tuy nhiên, theo sự biến thiên của thời gian, do dòng chảy sông Hồng thay đổi, bến cảng Phố Hiến bị bồi lắng nên việc bốc dỡ hàng hóa trở nên khó khăn. Mặt khác, Trung Quốc bãi bỏ lệnh cấm biển, mở ra một thị trường đông đúc hấp dẫn. Nhật Bản cũng chuyển sang chiến lược xuất khẩu bạc, vàng, tơ lụa. Các tuyến buôn bán đường biển trực tiếp trở nên thông thoáng hơn, không cần qua khâu trung gian, nên ngoại thương Việt Nam và ở Phố Hiến nói riêng đã giảm thiểu đáng kể. Các thương điếm phương Tây ở Phố Hiến lần lượt đóng cửa, vắng các tàu buôn, thương cảng Phố Hiến dần suy tàn.
Ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn, các thuyền buôn từ Hội An, Trung Quốc ghé cửa biển Thuận An đi dọc theo sông Hương lên Huế. Nhờ đó mà phẩm vật của người u và Trung Hoa (tơ sống, thuốc Bắc, bút chì...) đều được mang bán tại thủ phủ Kim Long (lúc thủ phủ chưa dời sang Phú Xuân).
Còn ở Đàng Ngoài, do ảnh hưởng cuộc chiến Trịnh – Nguyễn nên việc kiểm soát các tàu thuyền buôn bán của ngoại quốc ngày càng siết chặt. Sách “Lịch triều tạp kỷ” của Ngô Cao Lãng cho biết, năm 1726, đời vua Lê Dụ Tông, chúa Trịnh Cương lệnh cho các quan trấn thủ hai xứ Sơn Nam và Hải Dương rằng phàm có tàu buôn ngoại quốc, khi họ quay buồm ra biển thì phải xét hỏi nghiêm ngặt hơn nữa, thấy họ có xin mua đồ đồng đỏ, đã được quan giám đương cân đo và xét nghiệm rồi, cũng đều phải xét lại xem có đúng số mới cho phép họ được đi. Nếu thuyền nào chở đồng đỏ hay đồ đồng quá số hạn định thì phải bắt gữ lại, xét hỏi và trừng trị một cách sáng suốt. Nếu khám không kỹ đến nỗi để sơ hở, sót lọt, hay vì tư tình mà dung túng thì khi phát giác sẽ bị khép tội nặng.
Hay theo “Đại Việt sử ký tục biên”, dưới thời vua Lê Hiển Tông, năm Cảnh Hưng thứ 25 (1764), ở Nghệ An, châu Vạn Ninh có nhiều người khách Trung Quốc lưu vong đến ở, triều đình sai quan bắt họ phải ở riêng biệt. Lại có lái buôn Trung Quốc nhiều người đến cư trú ở Vĩnh Đại (huyện La Sơn, nay là huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh) và xã Triều Khẩu (huyện Hưng Nguyên, Nghệ An), là hai xã đối diện nhau nằm hai bên bờ sông Lam, không xa cửa biển, để mở cửa hiệu buôn bán. Triều đình cũng sai quan quân sở tại đến bắt họ đưa ra ngoài địa phương, phải ở riêng như trước.
Sau các biến động như các cuộc giặc dã, kiêu binh nổi loạn, chiến tranh với nhà Tây Sơn… khiến tình hình ngoại thương của Đàng Ngoài ngày càng giảm sút. Phố Hiến biến mất, thương nhân Trung Quốc vẫn còn tập trung tại một số phố buôn tiêu biểu của thành Thăng Long, nhưng hình ảnh những đoàn tàu buôn giương buồm nước ngoài phấp phới trên con sông Hồng huyết mạch chỉ còn trong dĩ vãng…
(VNF) - Tiêu dùng của người dân chiếm gần 64% GDP đang suy yếu, kéo theo niềm tin giảm mạnh. Trong bối cảnh xuất khẩu bấp bênh, đầu tư công chậm giải ngân, các chuyên gia cảnh báo: muốn đạt tăng trưởng 10%, Việt Nam phải khơi thông túi tiền và củng cố niềm tin tiêu dùng của dân.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Các chaebol Hàn Quốc sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao trong thời kỳ phát triển công nghiệp và cao hơn đáng kể Vingroup của Việt Nam hiện nay - vốn cũng đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp.
(VNF) - Tiêu dùng của người dân chiếm gần 64% GDP đang suy yếu, kéo theo niềm tin giảm mạnh. Trong bối cảnh xuất khẩu bấp bênh, đầu tư công chậm giải ngân, các chuyên gia cảnh báo: muốn đạt tăng trưởng 10%, Việt Nam phải khơi thông túi tiền và củng cố niềm tin tiêu dùng của dân.
(VNF) - Dự án Khu phức hợp công nghiệp – đô thị – dịch vụ Tiên Tiến (Mường Central) do Công ty cổ phần Thương mại Dạ Hợp thực hiện, với quy mô diện tích lên tới 82ha.