Đầu tư cơ sở hạ tầng có được thúc đẩy bởi luật PPP?
Nhóm tác giả -
26/10/2020 09:07 (GMT+7)
(VNF) - Cùng với sự tăng trưởng của nên kinh tế, các lĩnh vực như giao thông, năng lượng, thông tin, nhà ở... đều có sự gia tăng trong nhu cầu sử dụng. Trong bối cảnh đó, thị trường cơ sở hạ tầng và xây dựng Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng trưởng ổn đinh, liên tục do dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang có xu hướng tăng nhanh.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ cần hơn 200 tỷ USD cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng.
Báo cáo quý I/2018 của Công ty nghiên cứu thị trường quốc tế BMI (business Monitor International), dự báo mức tăng trưởng bình quân năm 10.4% đối với thị trường Cơ sở hạ tầng Việt Nam giai đoạn 2015- 2025.
Trên thực tế, thị trường xây dựng và cơ sở hạ tầng trong nửa đầu năm 2020 vốn bị ảnh hưởng do suy thoái kinh tế từ dư chấn của dịch Covid-19 vẫn đạt mức tăng trưởng trên 4,4% và GDP trong nửa đầu năm công bố mức tăng trưởng bất ngờ 1,81%. Năm 2019 ghi nhận mức tăng trưởng GDP cao nhất trong 10 năm qua (7,02%), trong đó lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất với 51,8% (năm 2018 lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,3%).
Theo báo cáo của Chính phủ Việt Nam (số 25/BC-CP) công bố vào tháng 1/2019, 336 dự án đã được thực hiện tại Việt Nam trong khoảng 20 năm kể từ năm 1997 khi hệ thống PPP được áp dụng (tổng vốn đầu tư 72 tỷ USD), chủ yếu tập trung vào 2 hình thức là dự án BT (188) và BOT (140).
Trong đó, lĩnh vực giao thông vận tải có 220 dự án, chiếm 65,47%;, điện và năng lượng 18 dự án, chiếm 5,35%; nước sạch và xử lý rác thải, môi trường 18 dự án, chiếm 5,35%; và những lĩnh vực khác có80 dự án, chiếm 23,83%. Trong số này, ngoại trừ lĩnh vực năng lượng và điện, khó có thể tìm thấy trường hợp nhà đầu tư nước ngoài thành công trong dự án PPP tại Việt Nam và chưa có công ty Hàn Quốc nào đạt thành quả trong các dự án PPP trong lĩnh vực giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, cảng, sân bay…).
Dự án BOT Tân Vạn - Nhơn Trạch, được triển khai trên cơ sở Biên bản ghi nhớ (MOU) được ký giữa Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc và Bộ Xây dựng là một trong những dự án tiêu biểu được điểm tên, tuy nhiên dự án này vẫn đang bị trì hoãn do nhiều lý do liên quan đến hình thức bồi thường đất đai, chưa có hợp đồng mẫu dự án PPP...
Nhu cầu đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam dự báo từ năm 2020 đến năm 2030 sẽ cần hơn 200 tỷ USD cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Đặc biệt, theo dự đoán, nhu cầu sử dụng điện sẽ tăng mạnh và ngành điện lực và phát điện được dự đoán là ngành sẽ dẫn đầu trong khối tăng trưởng xây dựng - cơ sở hạ tầng Việt Nam. Báo cáo Triển vọng Cơ sở hạ tầng Toàn cầu dự đoán nếu đầu tư cơ sở hạ tầng Việt Nam vẫn duy trì xu hướng như hiện nay thì sẽ có thể đáp ứng 83% nhu cầu cơ sở hạ tầng vào năm 2040.
Tuy nhiên, mặc dù chính phủ Việt Nam đã có nhiều kế hoạch phát triển khác nhau nhưng vẫn được đánh giá là khó có thể tiến hành đúng kế hoạch do còn tiềm ẩn nhiều khó khăn, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông và năng lượng. Nguyên nhân là do những hạn chế trong chỉ số lành mạnh tài chính (Financial Soundness Indicators) ở cấp Trung ương được dự đoán sẽ gây ra tình trạng kéo dài các dự án do việc chậm trễ giải ngân cũng như những khó khăn trong việc chuẩn bị mặt bằng sạch cho dự án. Chỉ nhìn vào kế hoạch của Bộ GTVT, có thể thấy rằng tổng chi cho giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020 là 48 tỷ USD, nhưng ngân sách khả dụng được ước tính là chỉ đạt dưới 30%.
Để khắc phục những hạn chế về tài chính so với nhu cầu về cơ sở hạ tầng công cộng trong quá trình phát triển, Chính phủ Việt Nam không thể không lựa chọn đưa vào áp dụng và mở rộng các dự án PPP. PPP không chỉ là một phương thức huy động nguồn lực từ đầu tư tư nhân, mà còn là nơi khối đầu tư tư nhân thể hiện sự sáng tạo từ công đoạn thiết kế, xây dựng, vận hành cho đến quản lý trong suốt vòng đời dự án, một nhân tố rất cần thiết nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ được cung cấp bởi những dự án công.
Ngoài ra, PPP là hình thức cung cấp cho các bên tham gia như chính phủ, các nhà đầu tư tài chính, các nhà đầu tư tư nhân và các bên liên quan khác nhau công cụ giám sát góp phần đạt được những giá trị gia tăng khác như nâng cao tính minh bạch và hiệu quả dự án, chống tham nhũng.v.v. Ngoài ra, thông qua đầu tư tư nhân, có thể mở rộng khả năng đầu tư tài chính trên các phương diện xã hội, phúc lợi và giáo dục, đồng thời đi đôi với với hiệu ứng gợn sóng cho nền kinh tế quốc dân trong các lĩnh vực sản xuất, việc làm và giá trị gia tăng từ đó thúc đẩy phát triển thị trường vốn quốc gia thông qua việc áp dụng các công cụ tài chính, thủ pháp tín dụng khác nhau.
Với đa mục tiêu như trên, sự kết hợp giữa Chính phủ và khối tư nhân là nhân tố quan trọng nhất dẫn đến thành công của dự án PPP. Ngoài ra, chuyển phần rủi ro từ khối nhà nước sang nhà đầu tư tư nhân là đặc điểm cơ bản của dự án PPP nên cần đảm bảo tính khả thi về mức lợi nhuận hợp lý và cơ chế chia sẻ rủi ro phù hợp để các nhà đầu tư và các tổ chức thu xếp tín dụng có năng lực và kinh nghiệm có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh;
Nội dung chính của luật PPP và những vấn đề đặt ra
Luật PPP của Việt Nam (Luật số 64/2020/ QH14) bao gồm 11 chương, 101 điều.
- Về lĩnh vực đầu tư, Luật PPP khu biệt 05 lĩnh vực thiết yếu để đầu tư theo phương thức PPP nhằm tập trung nguồn lực, cụ thể bao gồm: (1) Giao thông; (2) Lưới điện, nhà máy điện (trừ nhà máy thủy điện và trường hợp Nhà nước độcquyền theo quy định của Luật Điện lực); (3) Thủy lợi, cung cấp nước sạch, thoát nước, xử lý nước thải, chất thải; (4) Y tế, giáo dục - đào tạo; (5) Hạ tầng công nghệ thông tin. So với các nghị định trước đây, lĩnh vực đầu tư đã được rút gọn, lựa chọn và tập trung ngân sách có hiệu quả.
- Về quy mô đầu tư, Luật PPP quy định quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu để đầu tư theo phương thức PPP là 200 tỷ đồng. Đối với một sốdự án ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn hoặc trong lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, giá trị này là 100 tỷ đồng.
- Về phân loại dự án PPP và thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, Luật quy định việc phân loại dự án gắn với thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, gồm Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương, cơ quan khác và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư là cấp quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư.
- Về Hội đồng thẩm định dự án PPP, Luật PPP quy định Hội đồng thẩm định dự án PPP bao gồm: (1) Hội đồng thẩm định nhà nước; (2) Hội đồng thẩm định liên ngành; (3) Hội đồng thẩm định cấp cơ sở.
- Về Vốn nhà nước trong dự án PPP, Luật quy định cụ thể mục đích sử dụng, phương thức quản lý vốn nhà nước trong dự án PPP. Trong đó, với phần vốn nhà nước sử dụng để hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng và giải phóng mặt bằng, hạn mức tham gia trong dự án PPP không quá 50%tổng mức đầu tư và được quản lý, sử dụng theo 02 phương thức: (1) Tách thành tiểu dự án trong dự án PPP; (2) Bố trí vào hạng mục cụ thể theo tỷ lệ và giá trị, tiến độ và điều kiện quy định tại hợp đồng.
- Về lựa chọn nhà đầu tư, quy định về lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP lần đầu đượctích hợp tại một văn bản quy phạm pháp luật về PPP, bảo đảm tính thống nhất, chỉnh thể và tính liên tục của quy trình thực hiện một dự án PPP; đồng thời, thu hẹp trường hợp chỉ định nhà đầu tư so với quy định hiện hành tại Luật Đấu thầu năm 2013.
- Về cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu, Luật quy định cơ chế chia sẻ được áp dụng cho tất cả các dự án PPP với tỷ lệ cố định 50%-50% cho hai bên và trên cơ sở kiểm soát định kì doanh thu hàng năm. Việc chia sẻ phần giảm doanh thu khi doanh thu thực tế chỉ đạt 75% doanh thu trong phương án tài chính chỉ được áp dụng khi đã thựchiện đầy đủ các biện pháp điều chỉnh mức giá, phí sản phẩm, dịch vụ công hoặc thờihạn hợp đồng và phải được Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán phần giảm doanh thu.
- Về huy động vốn của doanh nghiệp dự án,bên cạnh kênh huy động vốn truyền thống là từ vốn tín dụng của các ngân hàng, Luật PPP cho phép doanh nghiệp dự án PPP được phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn thực hiện dự án PPP.
- Về Kiểm toán Nhà nước đối với dự án PPP, Luật quy định cụ thể phạm vi, nội dung Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán đối vớidự án PPP, bao gồm việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công trong dự án PPP.
- Về Dự án BT, Luật PPP thể chế chủ trương dừng thực hiện các dự án BT trong giai đoạn tới. Theo đó, quy định chuyển tiếp cho các dự án đang triển khai được quy định cụ thể tại Luật. Đặc biệt, kể từngày 15 tháng 8 năm 2020, các dự án BT chưa được phê duyệt chủ trương đầu tư phải dừng thực hiện.
* Còn một số vấn đề đặt ra như:
+ Hỗ trợ trong trường hợp chấm dứt hợp đồng sớm do phát sinh điều kiện bất khả kháng và điều kiện hỗ trợ tối thiểu trong trường hợp do sơ suất của nhà đầu tư chưa rõ ràng, quyền can thiệp của bên cho vay tuy có được quy định nhưng rủi ro trong hợp đồng cho vay và phân chia nợ chưa rõ ràng. Nội dung này sẽ được quy định tại Nghị định của Chính phủ, thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ Tài chính.
+ Pháp luật điều chỉnh hợp đồng: Hợp đồng được điều chỉnh theo pháp luật Việt Nam, các vấn đề điều chỉnh không được quy định trong pháp luật Việt Nam được hiện thực theo thỏa thuận của các bên với điều kiện không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Khi cơ quan có thẩm quyền và bên ký kết hợp đồng đồng ý với các điều kiện trên thì liệu có thể ghi trong thỏa thuận nhượng quyền được không? Đây là câu hỏi được nhiều chuyên gia pháp lý đặt ra. Cách tiếp cận của Chính phủ là xử lý trong các mẫu hợp đồng, có sự tham vấn chặt chẽ với khối đầu tư tư nhân để thoả thuận được các nội dung mà các luật tại Việt Nam chưa điều chỉnh nhưng cần thiết cho dự án và đảm bảo không trái các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
+ Giải quyết tranh chấp: Khi xảy ra tranh chấp giữa cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng với nhà đầu tư nước ngoài thì giải quyết theo hợp đồng hoặc điều ước quốc tế và Việt Nam là thành viên, trường hợp không quy định thì được giải quyết tại Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam.
Vấn đề đặt ra: Ngay cả phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng chưa chắc chắn do vẫn được công nhận và thi hành theo quy định của pháp luật Việt Nam. Quan điểm này trùng với ý kiến của một số chuyên gia pháp lý. Tuy nhiên đa số các luật sư hành nghề trong lĩnh vực này đều thông tin khả quan về tiến trình hội nhập kinh tế tích cực của Việt Nam, trong đó bao gồm cả nội dung công nhận và thực thi phán quyết của trọng tài nước ngoài nêu trên.
+ Bảo lãnh đầu tư: Cơ quan có thẩm quyền đảm bảo về trình tự, an toàn trong bảo lãnh về thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất ưu đãi, bảo lãnh sử dụng công trình công cộng có sử dụng đất, quyền sử dụng đất, được thế chấp quyền vận hành quản lý cơ sở hạ tầng cơ bản (hợp đồng chủ đầu tư - bên cho vay),v.v.
Vấn đề đặt ra: Theo quy định của Luật Đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất tại các ngân hàng nước ngoài vẫn chưa được quy định rõ ràng, ngay cả khi bên cho vay nước ngoài chỉ định một ngân hàng trong khu vực quản lý đảm bảo, thế chấp thì cũng cần phải xác nhận rõ khả năng thế chấp quyền sử dụng đất đai và công trình hay không.
Việc thế chấp quyền sử dụng đất tại ngân hàng nước ngoài là trái với Hiến pháp Việt Nam. Trên thực tế, nội dung này đang được hình dung (framing) theo cách tư duy của người nước ngoài về vấn đề sở hữu đất. Tại Việt Nam, sở hữu đất là toàn dân (entire people).
Tuy nhiên, chế độ sở hữu này không ảnh hướng tới việc triển khai dự án mà dẫn tới nhà đầu tư hoặc ngân hàng nước ngoài không thu hồi được. Ngược lại, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền sử dụng đất của người sử dụng (Điều 51 Hiến pháp), bảo đảm mục đích sử dụng đất gắn với dự án (Điều 80.2.b Luật PPP).
Ngay cả trong trường hợp ngân hàng thực thi quyền tiếp nhận dự án (step-in right) thì vẫn được duy trì quyền sử dụng và mục đích sử dụng đất. Trên cơ sở đó, khả năng thu hồi vốn của nhà đầu tư, ngân hàng được đảm bảo.
Do đó, việc yêu cầu pháp luật Việt Nam phải mở cho khả năng thế chấp quyền sử dụng đất tại ngân hàng nước ngoài là không phù hợp.
Hiệu quả kỳ vọng
Có thể đánh giá cao rằng việc thể chế hóa cơ chế chia sẻ rủi ro, đảm bảo cân đối ngoại tệ và thanh toán khi chấm dứt hoạt động thông qua luật về PPP được ban hành có thể ảnh hưởng tích cực đến các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khi quyết định đầu tư. Việc ban hành luật PPP được kỳ vọng sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp Hàn Quốc (các doanh nghiệp đầu tư và xây dựng) vốn là các doanh nghiệp đã có kinh nghiệm triển khai các dự án PPP tại Hàn Quốc và có khả năng huy động vốn nhờ độ tín nhiệm vượt trội so với các công ty Việt Nam.
Mặc dù vai trò của các nhà đầu tư Hàn Quốc trong các dự án PPP của Việt Nam cho đến nay còn rất hạn chế, tuy nhiên với các doanh nghiệp Hàn quốc có kinh nghiệm và trình độ công nghệ cao, độ tín dụng và năng lực tài chính tốt sẽ có nhiều cơ hội tham gia hơn nữa vào các dự án này khi môi trường dự án cũng như khung chính sách liên quan đến PPP thay đổi.
Tuy nhiên, đối với bất kỳ dự án nào, để đạt được hiệu quả tích cực trước hết cần phải có quy định và các bước quy trình hợp lý, phù hợp cũng như cần có đội ngũ tổ chức, nhân sự có chuyên môn, làm việc hiệu quả. Ngay cả đối với một số dự án làm đường tư nhân của Hàn Quốc cũng rất khó có thể chắc chắn rằng đã đạt được 100% thành công trên phương diện tài chính chính phủ, lợi ích xã hội - cộng đồng của dự án hay về mặt hiệu suất… Ngay cả ở Úc, quốc gia quản lý các dự án PPP đường bộ thông qua các Chỉ số Hiệu suất Quốc gia (NPI), đã từng có trường hợp công ty tư vấn dự án đường bộ tư nhân dự đoán lưu lượng giao thông một cách thiếu trách nhiệm, thêm vào đó là sự thiếu sát sao trong quản lý của chính phủ đã dẫn tới dự án phải đối mặt với tình trạng khó khăn.
Vì sự phát triển cân bằng và bền vững của Việt Nam, nâng cao chất lượng đời sống người dân và củng cố mối quan hệ hợp tác hữu hảo giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các chế độ và chính sách luật PPP phải nhanh chóng ổn định, có chỗ đứng ngay từ giai đoạn đầu. Để làm được điều này, ngoài việc xây dựng khung pháp luật, Chính phủ Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền ở các địa phương cần phải tự xem xét, đánh giá lại xem mình liệu có đủ năng lực để triển khai công tác đấu thầu, triển khai dự án, quản lý hợp đồng,v.v. hay không.
Theo quan điểm của các chuyên gia Hàn Quốc, đây cũng là thời điểm mà Việt Nam cần thiết lập một cơ quan chuyên trách (PPP Unit) về PPP như Trung tâm quản lý đầu tư công (PIMAC) và KIND của Hàn quốc, cơ quan đóng vai trò viện nghiên cứu hoặc viện chính sách (Think tank) cũng như xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao phục vụ công tác triển khai các dự án.
Cùng với đó thông qua các hình thức triển khai dự án PPP khác nhau, cần thiết phải cơ cấu dự án một cách sáng tạo, lập kế hoạch dự án chặt chẽ, nâng cao tính minh bạch, thúc đẩy hợp tác lẫn nhau, kích hoạt chức năng giám sát, tăng cường hơn nữa các phương án bảo vệ nhà đầu tư, mở rộng hệ thống huy động nguồn vốn...
Và trên hết, đã đến lúc mọi người cần nghiêm túc xem xét việc chuyển đổi sang mô hình cơ sở hạ tầng có thể đảm bảo phát triển kinh tế bền vững và phúc lợi của người dân.
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Gần 3ha đất nông nghiệp của Tân Á Đại Thành ở quận Hoàng Mai cũ (Hà Nội) được chuyển đổi mục đích sử dụng để thực hiện tổ hợp nhà ở, văn phòng.