Minh bạch thông tin để 'khơi dòng' trái phiếu bất động sản
Tùng Lâm -
29/01/2024 12:55 (GMT+7)
(VNF) - Ông Lê Hồng Khang, Giám đốc Xếp hạng Tín nhiệm của FiinRatings nhấn mạnh, DN cần chủ động minh bạch thông tin về hồ sơ kinh doanh, năng lực tín dụng và cân nhắc các phương án giảm giá BĐS để tăng tính khả mại của các sản phẩm.
Ông Lê Hồng Khang, Giám đốc Xếp hạng Tín nhiệm của FiinRatings
Khôi phục niềm tin bằng minh bạch thông tin
- Ông đánh giá như thế nào về sự phát triển của TPDN bất động sản tại Việt Nam từ trước đến nay? Theo ông, đâu là những thứ được và mất trong quá trình phát triển đó?
Có thể thấy rằng thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) nói chung và trái phiếu bất động sản (BĐS) trong giai đoạn khoảng 6 năm trở lại đây có tốc độ tăng trưởng quy mô nhanh hơn tương đối nhiều so với tốc độ phát triển của các hạ tầng phục vụ cho việc duy trì sự ổn định trong vận hành hoạt động của thị trường TPDN.
Trong khi đó, điểm mấu chốt là chất lượng tín dụng các tổ chức phát hành đa phần chưa cao, có thể nói là dưới chuẩn cho vay tín dụng của ngân hàng nhưng vấn đề minh bạch thông tin lại ở mức rất sơ khai, có thể nói là yếu.
Thật không may là vấn đề này diễn ra trong bối cảnh môi trường kinh doanh không thuận lợi, lãi suất tăng cao và định hướng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng đối với lĩnh vực BĐS dân cư và kinh doanh BĐS đã dẫn đến các trường hợp vi phạm nghĩa vụ nợ như chúng ta đã biết.
Điểm tích cực lớn nhất chúng tôi nhìn nhận là kênh trái phiếu đã giúp các doanh nghiệp BĐS chống chọi tốt hơn trong giai đoạn ảnh hưởng bởi COVID (giai đoạn 2020 - 2022) khi mà dòng tiền kinh doanh gián đoạn và tín dụng ngân hàng kiểm soát, làm cho quá trình hạ cánh mềm của ngành này được kéo dài hơn và do đó, còn cơ hội cho những can thiệp chính sách để có thể có cơ hội phục hồi từng bước trong bối cảnh hiện nay.
Ảnh minh hoạ
Điểm mất mát lớn nhất theo tôi có lẽ là niềm tin vào kênh TPDN của nhà đầu tư, không chỉ nhà đầu tư cá nhân mà cả với nhiều định chế tài chính phi ngân hàng trong và ngoài nước suy giảm và có lẽ cần nhiều thời gian hơn để có thể khôi phục lại.
Bởi nhìn sâu vào cơ cấu nhà đầu tư tham gia vào kênh TPDN tại Việt Nam, có lẽ ngoài ngân hàng thì các nhà đầu tư cá nhân vẫn là đối tượng có nhiều tiềm năng nhất để có thể tham gia kênh đầu tư này, trong khi các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí… cần nhiều thời gian hơn để có thể sửa đổi và cải thiện các chính sách liên quan để có thể đầy mạnh tham gia vào phân bổ tài sản vào TPDN, trong đó có TPDN BĐS.
Thông qua những vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng sự cần thiết về việc tăng cường sự minh bạch về mặt thông tin. Đặc biệt, các ý kiến đánh giá về rủi về trái phiếu cũng như năng lực trả nợ của tổ chức phát hành là một trong các yếu tố quyết định trong việc phục hồi niềm tin của nhà đầu vào thị trường TPDN.
Bên cạnh đó, việc mở rộng cơ sở nhà đầu tư, tạo cơ chế khuyến khích nhà đầu tư tổ chức như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và định chế đầu tư nhằm chuẩn hóa hoạt động của thị trường cũng là yếu tố giúp đưa thị trường quay trở lại quỹ đạo phát triển trong giai đoạn sắp tới.
- Ông nhận định thế nào về áp lực đáo hạn trái phiếu trong tương lai? Việc các doanh nghiệp gia hạn trái phiếu trong thời gian qua liệu có giống như tạm bịt lỗ thủng trên con thuyền đang đắm, tức là sẽ không cầm cự được lâu?
Áp lực đáo hạn nợ vẫn tương đối lớn trong thời gian tới tức quý I và quý II năm 2024, nhất là trong bối cảnh ảm đạm của các ngành đang có dư nợ trái phiếu lớn như ngành BĐS và năng lượng cũng như một số ngành liên quan đến BĐS như xây dựng và vật liệu. Hiện nay áp lực thanh khoản đã giảm bớt một phần, phần lớn các trái phiếu gặp vấn đề đều đã được gia hạn trên 1 năm.
Chúng tôi cho rằng đây không hoàn toàn là “bịt lỗ thủng trên con thuyền đang đắm”. Bởi sẽ có một số doanh nghiệp có cơ hội khôi phục được một phần dòng tiền của họ để có thể hướng đến một kết cục có lợi cho các bên.
Tình huống này chúng tôi gọi là “happy ending”, nhất là các nhóm tổ chức phát hành mà chỉ là vấn đề mất cân đối kỳ hạn, ví dụ năng lượng tái tạo và một số phân khúc BĐS. Môi trường lãi suất thấp tính tới thời điểm hiện tại, mặt bằng lãi suất đã giảm tương đối so với cách đây nửa năm, tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp tìm các phương án tái cấp vốn với chi phí thấp hơn.
Dĩ nhiên, cũng có nhiều trường hợp đang “hạ cánh mềm” (soft landing) khi mà các bên, kể cả ngân hàng, cùng chung tay tham gia tái cấu trúc và tháo gỡ cùng doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, sự trì trệ do ảnh hưởng hậu COVID, căng thẳng địa chính trị, giá cả nguyên liệu gia tăng khiến cho nhu cầu tiêu dùng giảm sút nhanh chóng, tốc độ phục hồi của thị trường bị chậm lại.
Giải pháp gia hạn thời gian trả nợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm kiếm các phương án tái cấu trúc lại hoạt động kinh doanh nhưng nếu các nút thắt về vướng mắc pháp lý đối với các dự án BĐS chưa thể giải quyết trong một đến hai năm tới, khả năng các doanh nghiệp vẫn chưa thể đáp ứng được nghĩa vụ nợ sau khi gia hạn là hoàn toàn có thể xảy ra.
Biểu đồ giá trị TPDN phát hành theo ngành (Nguồn: Cổng thông tin trái phiếu Bond Portal - FiinGroup)
Vì vậy, bên cạnh việc chờ đợi các thay đổi về mặt chính sách, doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm các phương án giải quyết thông qua minh bạch thông tin về hồ sơ kinh doanh, năng lực tín dụng. Giảm giá bán BĐS cũng sẽ giúp tăng khả năng thành công của phương án tái cấu trúc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Gỡ pháp lý để đón “tiền tươi”
- Các doanh nghiệp BĐS hiện giờ rất cần “tiền tươi”. Giải pháp nào để các doanh nghiệp BĐS có thể huy động được tiền từ phát hành trái phiếu mới, nhất là trong bối cảnh sức khỏe tài chính hiện tại và triển vọng tương lai của doanh nghiệp BĐS khá kém? Liệu có nên nới lỏng hơn nữa các quy định phát hành trái phiếu hay không?
Để có được “tiền tươi” thì yếu tố “sạch” về pháp lý theo chúng tôi là quan trọng nhất. Còn các yếu tố khác thì các bên có thể đàm phán với mức lãi suất mới và kỳ hạn mới. Tiền tươi có thể có được từ ngân hàng hoặc phát hành TPDN.
Theo yêu cầu của Nghị định 65 về trái phiếu riêng lẻ thì tất cả các đợt phát hành cần có phương án sử dụng vốn cụ thể và những dự án thực sự “sạch” về pháp lý và có hồ sơ phát hành rõ ràng sẽ có thể có cơ hội “tiền tươi”. Việc phát hành TPDN và không cụ thể về mục đích sử dụng vốn sẽ khó có thể được thị trường chấp nhận trong bối cảnh thị trường và pháp lý hiện nay.
Thực tế, ngay cả khi bối cảnh chung của thị trường khó khăn, vẫn có nhiều doanh nghiệp huy động vốn TPDN hoặc tái cấu trúc thành công. Thực tế, trái phiếu BĐS vẫn huy động ở mức 72 nghìn tỷ đồng trong 10 tháng năm 2023.
Có thể không hoàn toàn là “tiền tươi” mới vào doanh nghiệp mà một phần là vốn tái cấu trúc từ nợ vay ngân hàng, nhưng điều đó cũng thể hiện sự tham gia của các nhà đầu tư mới và đồng hành, chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp.
Ngoài ra, vẫn có những điểm sáng nhất định trong ngành BĐS, đó là những doanh nghiệp đã chuẩn bị bộ đệm vốn dự phòng cho những trường hợp xấu, phát triển dự án ở tốc độ phù hợp với dòng tiền của doanh nghiệp, cũng như giữ đòn bẩy ở ngưỡng tương đối an toàn.
Điều này giúp doanh nghiệp phản ứng linh hoạt hơn trong bối cảnh thị trường không thuận lợi. Trong ngắn hạn, huy động vốn của doanh nghiệp BĐS nói chung cần sự chung tay tháo gỡ từ phía các cơ quan quản lý.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn nhấn mạnh doanh nghiệp cần chủ động minh bạch thông tin về hồ sơ kinh doanh, năng lực tín dụng và cân nhắc các phương án giảm giá BĐS để tăng tính khả mại của các sản phẩm.
Việc nới lỏng các quy định về phát hành trái phiếu không phải là giải pháp căn cơ để khôi phục thị trường trong điều kiện hiện nay, do nhu cầu và sự quan tâm của nhà đầu tư đối với TPDN đã giảm sút trong thời gian qua.
Việc xây dựng, phát triển thị trường vốn một cách ổn định dựa trên sự minh bạch về mặt thông tin là yếu tố quan trọng trong việc tạo lập kênh huy động vốn bền vững, giữ vững niềm tin của nhà đầu tư, có lợi cho doanh nghiệp trong dài hạn.
- Gần đây, vụ việc Tân Hoàng Minh gây bất ngờ khi toàn bộ số tiền 8.600 tỷ đồng khắc phục hậu quả đã được nộp lại. Như vậy, vụ việc “khơi mào” cho những biến động lớn trên thị trường TPDN lại có thể “kết thúc có hậu”. Ông nhìn nhận thế nào về diễn biến này? Liệu có gợi mở lối thoát nào cho thị trường TPDN hay không?
Sự kiện này đã cho thấy vai trò quan trọng và quyết tâm của các cơ quan quản lý trong việc tạo lập thị trường vốn ngày càng lành mạnh cho nhà đầu tư. Bản thân các nhà đầu tư cá nhân là các chủ thể dễ bị ảnh hưởng nhất khi tham gia vào thị trường mà chưa chuẩn bị kỹ càng về mặt kiến thức cũng như cập nhật thông tin.
Chúng tôi nhận thấy, cơ quan quản lý đã có những phản ứng kịp thời và hiệu quả khi thông qua các chính sách có tính đổi mới phù hợp với tình hình trong nước và tiến tới các thông lệ quốc tế, cung cấp các biện pháp đồng bộ nhằm khôi phục niềm tin của nhà đầu tư đối với thị trường TPDN. Đây có lẽ là một trong các biện pháp quan trọng nhất mà thị trường ghi nhận để có thể khôi phục lại niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường này.
5 giải pháp thúc đẩy thị trường phát triển bền vững hơn
- Theo quan điểm của ông, làm thế nào để thị trường TPDN Việt Nam phát triển hài hòa trong tương lai, tức là cân bằng được giữa hệ quả từ các vấn đề cũ (nhất là vấn đề trả nợ) và phát triển theo hướng mới bền vững hơn?
Bài toán của thị trường đang phát triển là liên tục cải thiện và thích nghi với trạng thái mới. Đây là điều không thể tránh khỏi trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của thị trường TPDN nói riêng cũng như thị trường vốn tại Việt Nam nói chung, và điều này không phải ngày một ngày hai mà cần sự chung tay từ tất cả các thành viên trên thị trường vốn. Một số nhóm giải pháp chúng tôi đánh giá là sẽ giúp đẩy mạnh sự phát triển của thị trường trong tương lai như sau:
Thứ nhất, đơn giản và minh bạch hóa thủ tục, thông tin phát hành theo đối tượng nhà đầu tư. Cụ thể, đối với những nhà đầu tư cá nhân – đối tượng không có đủ nguồn lực để thu thập và có hệ thống phân tích thông tin riêng, điều kiện và điều khoản chuẩn cần được áp dụng, trong đó có việc trái phiếu cần được xếp hạng tín nhiệm thay vì chỉ dựa trên quy mô và mức độ đòn bẩy của TPDN trong cơ cấu vốn như tại Nghị định 155 và Nghị định 65 hiện nay.
Thứ hai, tạo cơ chế để đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư. Hiện cơ sở nhà đầu tư TPDN của Việt Nam chủ yếu tập trung vào ngân hàng thương mại và nhà đầu tư cá nhân, trong khi các định chế tổ chức bao gồm công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư trái phiếu còn rất khiêm tốn. Vì vậy, để phát triển thị trường TPDN về trung và dài hạn, cần tháo gỡ những rào cản pháp lý nhằm mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức vào thị trường.
Thứ ba, đẩy mạnh kênh trái phiếu chào bán rộng rãi ra công chúng. Nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội là rất lớn và Việt Nam đang thiếu một cơ chế huy động vốn trong dân hiệu quả để phục vụ phát triển kinh tế dài hạn, thay vì chỉ tập trung vào tiền gửi ngân hàng, cổ phiếu và BĐS.
Thực tế, TPDN trong thời gian qua được mua bởi NHTM (40%), nhà đầu tư cá nhân (30%), các quỹ đầu tư và doanh nghiệp (30%). Do đó, nhu cầu đầu tư trái phiếu của người dân là có và rất lớn. Do đó, để đẩy mạnh kênh TPDN chào bán rộng rãi ra công chúng, chúng ta có thể xem xét cơ chế miễn trừ phê duyệt/phê duyệt nhanh nếu hồ sơ phát hành đáp ứng các quy định hiện hành và tổ chức phát hành là doanh nghiệp niêm yết, chưa có vi phạm công bố thông tin trong 5 năm gần nhất và có xếp hạng tín nhiệm ở mức cao (Ví dụ AA trở lên, tức là có khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ ở mức rất cao hoặc rủi ro ở mức rất thấp) bởi một tổ chức xếp hạng tín nhiệm nội địa được Bộ Tài chính cấp phép.
Thứ tư, xem xét thành lập tổ chức bảo lãnh TPDN. Việt Nam đang thiếu các định chế tài chính trung gian, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng hoặc bảo lãnh thanh toán trái phiếu. Bên đứng ra bảo lãnh sẽ thực hiện cam kết thanh toán một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ nợ của tổ chức phát hành trong trường hợp rủi ro xảy ra.
Hiện trên thị trường đã có một số lô trái phiếu bảo lãnh thanh toán bởi ngân hàng thương mại và phần còn lại chủ yếu là bảo lãnh doanh nghiệp được thực hiện bởi công ty trong cùng một tập đoàn đối với tổ chức phát hành TPDN. Tuy nhiên, số lượng trái phiếu được bảo lãnh còn ít và chủ yếu được mua bởi các công ty bảo hiểm.
Nhằm mục đích khôi phục niềm tin và đa dạng hóa cho sản phẩm trái phiếu, Việt Nam nên cân nhắc hình thành khung pháp lý thành lập một số tổ chức cung cấp dịch vụ bảo lãnh tín dụng trong đó có bảo lãnh trái phiếu được thực hiện ngoài các tổ chức tín dụng.
Tổ chức bảo lãnh này có thể do tư nhân thành lập và hoạt động bởi các định chế tài chính - đầu tư lớn của Việt Nam và các tổ chức quốc tế. Vai trò của định chế này là cung cấp dịch vụ bảo lãnh trái phiếu và các công cụ nợ khác.
Các định chế đứng ra bảo lãnh phải có mức vốn đủ lớn và khuôn khổ hoạt động để có được mức xếp hạng tín nhiệm rất cao (thông thường là ở mức cao nhất AAA – ngang bằng với mức xếp hạng của Chính phủ) để có thể tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư trong việc thực hiện các nghĩa vụ bảo lãnh nếu xảy ra trường hợp một ngân hàng hoặc doanh nghiệp gặp khó khăn về đáp ứng nghĩa vụ nợ. Đổi lại, các tổ chức bảo lãnh này sẽ thu một mức phí dựa trên giá trị TPDN được bảo lãnh tùy theo mức độ xếp hạng tín nhiệm của tổ chức phát hành hoặc lô trái phiếu đó.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng cứng và mềm cho thị trường. Việc đưa vào khai thác và vận hành kênh kê khai và giao dịch tập trung TPDN riêng lẻ trên HNX là bước tiến quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần tiếp tục hoàn thiện các cấu phần quan trọng của nền tảng cứng và mềm của thị trường nhằm hướng thị trường đến tiêu chuẩn bền vững.
Cụ thể, đưa các TPDN riêng lẻ, nhất là những lô trái phiếu đang được sở hữu bởi nhiều nhà đầu tư cá nhân lên hệ thống kê khai giao dịch HNX như quy định hiện nay. Cùng với đó, phát triển đội ngũ tư vấn đầu tư trái phiếu, nhà giao dịch trái phiếu (bond dealers) và cấp chứng chỉ chuyên môn phù hợp và khuyến khích các thành viên thị trường hoặc hiệp hội liên quan trong việc xây dựng cẩm nang và hướng dẫn cho nhà phát hành, đơn vị phân phối, lực lượng môi giới/ dealers và cẩm nang hướng dẫn phân tích và đánh giá TPDN cho nhà đầu tư cá nhân.
Bên cạnh đó, khuyến khích các thành viên thị trường xây dựng đường cong lãi suất TPDN dựa trên kết quả giao dịch trên sàn tùy theo mức độ xếp hạng tín nhiệm, kỳ hạn trái phiếu và các đặc tính khác của các sản phẩm trái phiếu. Song song, chúng ta nên tạo cơ chế khuyến khích thành lập đơn vị định giá trái phiếu độc lập nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư trong công tác báo cáo và thuyết minh, nhất là với những trái phiếu không có thanh khoản hay không có giao dịch.
Ngoài ra, khuyến khích hình thành cơ sở dữ liệu về xác suất vỡ nợ TPDN tại Việt Nam tương ứng với mức xếp hạng tín nhiệm nhằm làm cơ sở tham chiếu định giá trái phiếu, phân bổ tài sản và công tác quản trị rủi ro.
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Gần 3ha đất nông nghiệp của Tân Á Đại Thành ở quận Hoàng Mai cũ (Hà Nội) được chuyển đổi mục đích sử dụng để thực hiện tổ hợp nhà ở, văn phòng.