Sửa Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp: Rất cần những đột phá
Nguyễn Văn Toàn, PCT Vafie -
27/04/2019 07:02 (GMT+7)
(VNF) - Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2014 đang được nghiên cứu sửa đổi bổ sung. Nhiều ý kiến cho rằng, việc chỉnh sửa lần này cần những đột phá nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập, tạo điều kiện cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch, tạo thuận lợi cho việc gia nhập thị trường, hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Tuy vậy, qua hơn ba năm thực hiện, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp đã bộc lộ một số bất cập:
Về lĩnh vực ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (ĐTKDCĐK) và điều kiện ĐTKD, đây thực sự là rào cản cho quá trình tự do hóa hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp và người dân, một số lĩnh vực và rất nhiều điều kiện ĐTKD không phù hợp với nguyên tắc các ngành nghề ĐTKDCĐK là các ngành nghề có khả năng ảnh hưởng không tốt đến “quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Cần rà soát loại bỏ những ĐKĐTKD không phù hợp, trình quốc hội sửa đổi, bổ sung điều 6 và điều 7 của Luật Đầu tư.
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp là hai luật chủ đạo trong điều chỉnh hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cách tiếp cận rộng và bao quát nên còn nhiều nội dung thiếu đồng bộ với các luật chuyên ngành. Các luật khác như Luật Đầu tư công, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Nhà ở... cũng điều chỉnh hoạt động đầu tư của doanh nghiệp ở các phạm vi và mức độ khác nhau nhưng chưa có sự phân định rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong việc xác định hoạt động đầu tư được điều chỉnh theo quy định của Luật Đầu tư hay luật chuyên ngành khác.
Theo báo cáo của ban soạn thảo, một số quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp còn thiếu cụ thể dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện như:
Luật Đầu tư chưa quy định cụ thể khái niệm, mục đích, giá trị pháp lý, phạm vi áp dụng thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư phù hợp với từng hình thức đầu tư và nguồn vốn sử dụng, chưa phân định rõ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư với thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất theo quy định tương ứng của Luật Đất đai và Luật Đấu thầu. Chưa có quy định hợp lý về phân cấp thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Quy định về hình thức đầu tư, thủ tục thành lập tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), thủ tục góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN và thủ tục triển khai dự án đầu tư còn một số nội dung thiếu cụ thể dẫn đến cách hiểu khác nhau trong quá trình thực hiện.
Luật Đầu tư chưa làm rõ mục đích, giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài; hình thức đầu tư ra nước ngoài chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Đối với doanh nghiệp nhà nước, hồ sơ, trình tự quyết định đầu tư ra nước ngoài chưa được quy định thống nhất giữa Luật Đầu tư và Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
Quy định của Luật Doanh nghiệp về việc áp dụng luật chuyên ngành liên quan đến thủ tục thành lập doanh nghiệp dẫn đến phân tán đầu mối đăng ký thành lập doanh nghiệp, chưa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi có nhu cầu thay đổi hoạt động kinh doanh. Một số quy định về quản trị doanh nghiệp còn thiếu linh hoạt.
Từ những bất cập nêu trên, với mục tiêu tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho người dân và doanh nghiệp, gắn với việc thức hiện Nghị quyết 19/NQ-CP, Nghị quyết 35/NQQ-CP, Nghị quyết 139/NQQ-CP của chính phủ, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp lần này tập trung vào ba nội dung chính:
Một là, hoàn thiện các quy định về ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh.
Hai là, giảm thiểu các chi phí đầu tư kinh doanh thông qua cải cách thủ tục hành chính, nâng cao quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Ba là, hoàn thiện cơ chế phân cấp và phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư ra nước ngoài, đảm bảo hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Như vậy, những bất cập của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp 2014 trong quá trình thực hiện bốn năm qua đã được rà soát, phát hiện, phân tích đề xuất bổ sung, điều chỉnh phù hợp góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp.
Tuy vậy, kỳ vọng của người dân và doanh nghiệp trong lần sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp còn cao hơn thế.
Thứ nhất, cần đặt Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam với kinh tế toàn cầu, khi hàng loạt các hiệp định thương mại tự do FTA trong đó có nhiều FTA thế hệ mới đã được ký kết, đang và sẽ được thực thi, rất nhiều cơ hội và không ít thách thức của các FTA đang hiện hữu, muốn tận dụng tốt các cơ hội, vượt qua các thách thức, hiện thực hóa kết quả của hội nhập, chúng ta cần những thay đổi căn bản tích cực theo hướng cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế mà trước hết là hệ thống chính sách, pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp và người dân.
Thứ hai, cần đặt Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển mà Việt Nam không thể đứng ngoài, khi nhà nước và chính phủ đang đặt kỳ vọng và quyết tâm rất lớn để tận dụng cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0, tạo bước phát triển bứt phá cho kinh tế xã hội đất nước.
Thứ ba, cũng cần đặt Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp trong bối cảnh phong trào khởi nghiệp đang được phát huy mạnh mẽ, với tinh thần quốc gia khởi nghiệp, xây dựng thương hiệu Việt (thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu vùng, địa phương và thương hiệu quốc gia) đang là định hướng cho phát triển bền vững.
Thứ tư, trong xu thế hội nhập hiện nay, nhiều quốc gia đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư để cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài FDI nhất là các dự án lớn có công nghệ cao. Trung Quốc vừa thông qua Luật ĐTNN mới với nhiều cải thiện về môi trường đầu tư là một là một minh chứng.
Một số nội dung cụ thể cần nghiên cứu xem xét liệu có thể đưa vào Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp lần này.
Về đầu tư nước ngoài FDI
Sau 30 năm thu hút FDI những thành quả của FDI là không thể phủ nhận. Khu vực FDI đã đóng góp khoảng 20%thu nội địa, gần 20% GDP, đóng góp 70% xuất khẩu, xuất siêu khoảng 25%. FDI đã tạo việc làm cho 4 triệu lao động trực tiếp và 10 trệu lao động gián tiếp, nâng cao trình độ,tác phong và kỹ năng lao động trong đó có lao động kỹ thuật và lao động quản lý.
FDI đã thúc đẩy chuyển giao và phát triển công nghệ, góp phần vào công nghiệp hóa hiện đại hóa. FDI cũng góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo hiệu ứng lan tỏa giúp các doanh nghiệp trong nước phát triển. Bên cạnh đó, FDI cũng góp phần thúc đẩy hội nhập, thúc đẩy cải cách thể chế, cải cách, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Tuy nhiên, hoạt động FDI trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế:
Thứ nhất, hiệu quả FDI thấp: nhiều doanh nghiệp FDI tập trung khai thác lao động giản đơn, gia công lắp ráp, hàm lượng công nghệ thấp, tiêu tốn nhiều năng lượng, giá trị gia tăng không cao; thiếu cơ chế ưu đãi thích đáng và cơ chế giám sát thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc của kinh tế thị trường đặc biệt là ở phân khúc công nghệ cao, công nghệ nguồn.
Thứ hai, sự liên kết và tính lan tỏa của các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa còn rất hạn chế, chưa có những ưu đãi thích đáng để các doanh nghiệp FDI liên kết chiều sâu với các doanh nghiệp nội địa như phát triển công nghiệp phụ trợ, tham gia chuỗi giá trị hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI. Mặt khác chưa có những chính sách và chương trình hiệu quả hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa phát triển để có thể hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp FDI trên địa bàn.
Thứ ba: về đối tác đầu tư. Tuy đã có quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào Việt Nam, nhưng chúng ta chưa có môi trường đầu tư đủ hấp dẫn và có tính chọn lọc để thu hút được nhiều hơn các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực về tài chính và công nghệ đến từ các nước phát triển có công nghệ cao, công nghệ nguồn đầu tư vào Việt Nam. Theo số liệu của cục ĐTNN, tính đến hết năm 2018, Mỹ đứng thứ 11 trong các quốc gia vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng ký là hơn 9,3 tỷ USD (trong khi đó mỗi năm Mỹ đầu tư ra nước ngoài khoảng 300 tỷ USD). Tương tự như vậy, tổng số vốn đăng ký của 28 nước trong liên minh Châu Âu - EU đầu tư vào Việt Nam đến tháng 12/2018 khoảng hơn 25 tỷ USD, trong đó Cộng hòa liên bang Đức đứng thứ 18 đầu tư vào Việt Nam với số vốn đang ký gần 1,95 tỷ USD (trong khi mỗi năm Đức đầu tư ra nước ngoài khoảng 70 tỷ USD). Một con số rất khiêm tốn so với tiềm năng thu hút ĐTNN từ Mỹ và EU vào Việt Nam.
Thứ tư: Về lĩnh vực đầu tư, Việt Nam là một nước nông nghiệp truyền thống, có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao, song thu hút ĐTNN vào nông nghiệp trong thời gian qua là một bức tranh khá ảm đạm, theo số liệu của Cục ĐTNN, tính đến cuối năm 2018 cả nước có 491 dự án ĐTNN vào nông nghiệp với số vốn đăng ký gần 3,45 tỷ USD, chiếm khoảng 1% tổng số vốn FDI đăng ký đầu tư vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, không ít các tiêu cực nảy sinh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN tại Việt Nam, một số dự án gây ô nhiễm môi trường, chuyển giá trốn thuế, tranh chấp lao động... mà chưa được kiểm soát và xử lý thích đáng theo pháp luật.
Từ những phân tích trên, đầu tư nước ngoài cần một tư duy đổi mới thực sự và căn bản.
Với tinh thần đó, sửa đổi Luật Đầu tư lần này cần có những chuyển biến mang tính đột phá nhằm khắc phục những bất cập, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTNN, hiệu lực quản lý nhà nước. Cụ thể: cần hoàn thiện các quy định liên quan đến hình thức M&A, PPP, hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng hình thành khung phân loại có trọng tâm, trọng điểm ưu đãi theo ngành, lĩnh vực gắn với địa phương, vùng lãnh thổ trong từng giai đoạn, ưu tiên thu hút các dự án từ các quốc gia phát triển có công nghệ cao, công nghệ nguồn.
Xây dựng bộ tiêu chí các mức ưu đãi để thực hiện chủ trương hậu ưu đãi một cách minh bạch, ổn định. Bộ tiêu chí ưu đãi được thiết kế thống nhất trong cả nước, được chi tiết hóa phù hợp với điều kiện từng địa phương. Xây dựng cơ chế ưu đãi linh hoạt, bao gồm cả biện pháp phi tài chính nhằm tăng cường khả năng thu hút dòng ĐTNN từ các đối tác tiềm năng, TNCs vào các dự án đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế đất nước.
Về Luật Doanh nghiệp, hiện tại trên phạm vi cả nước có gần 5 triệu hộ kinh doanh có đăng ký, tạo gần 10 triệu việc làm, đóng góp khoảng 13% GDP. Trong khi đó, chưa có văn bản pháp luật nào quy định về quyền và nghĩa vụ, địa vị pháp lý của hộ kinh doanh. Luật Doanh nghiệp 2014 cũng không đưa hộ kinh doanh vào đối tượng điều chỉnh của Luật (điều 1 Luật Doanh nghiệp 2014), song điều 212 của luật này lại quy định “hộ kinh doanh có quy mô nhỏ thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của chính phủ”. Hơn nữa, bản chất hoạt động của hộ kinh doanh không khác gì hoạt động của doanh nghiệp.
Đây thực sự là một bất cập. Trong lần sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp lần này, nên chăng, đưa hộ kinh doanh vào đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, trên cơ sở đó xác định rõ quyền, nghĩa vụ và địa vị pháp lý, có chính sách hỗ trợ phát triển và hỗ trợ chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp.
Tạo bước đột phá trong Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp thực sự là nhu cầu khách quan trong tiến trình đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Các chaebol Hàn Quốc sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao trong thời kỳ phát triển công nghiệp và cao hơn đáng kể Vingroup của Việt Nam hiện nay - vốn cũng đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp.
(VNF) - Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, việc đánh giá khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn nhiều bất cập khi “gộp chung” doanh nghiệp lớn, nhỏ và hộ kinh doanh để tính toán, từ đó đưa ra kết luận năng suất và hiệu quả thấp.
(VNF) - GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nhấn mạnh, để phát triển công nghệ chiến lược và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần một mô hình hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, viện – trường và doanh nghiệp, trong đó đào tạo nhân lực chất lượng cao là nền tảng then chốt, tạo ra đội ngũ đủ năng lực triển khai chính sách, vận hành công nghệ, và đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường.
(VNF) - Theo các chuyên gia, Việt Nam cần xây dựng một “sandbox” đủ lớn và thể chế tài chính chuẩn quốc tế để thu hút nhà đầu tư chiến lược, củng cố năng lực pháp lý và thúc đẩy hội nhập tài chính toàn cầu.
(VNF) - 80 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã chứng minh chân lý “phi nông bất ổn” khi vừa là trụ đỡ kinh tế, vừa tạo nên những bước ngoặt đưa kinh tế Việt Nam vươn ra thế giới.
(VNF) - Việt Nam đang chứng kiến sự bùng nổ đầu tư vào lĩnh vực giáo dục. Với quy mô hơn 25 triệu học sinh, sinh viên trên toàn quốc trong năm học 2024 - 2025 và tỷ lệ trường mầm non ngoài công lập vượt trội hơn công lập. Lĩnh vực này không chỉ thu hút dòng vốn trong nước mà còn luồng vốn quốc tế lớn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục quốc dân.
(VNF) - PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn - Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng: "Đây có thể coi là thời điểm không thể chậm trễ hơn phải khắc phục những thiếu hụt kể trên, khơi dậy sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân, góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã được đề ra"
(VNF) - Để kinh tế tư nhân thực sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng: Việt Nam cần một “cuộc đổi mới lần hai”. Theo đó, chỉ với một thể chế minh bạch, môi trường bình đẳng và cơ chế khuyến khích đổi mới sáng tạo, khu vực tư nhân mới có thể phát huy đầy đủ vai trò “động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế.
(VNF) - Dù đóng góp gần nửa GDP và tạo việc làm cho hơn 8/10 lao động cả nước, nhiều doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lại chọn “đứng yên” hoặc thu nhỏ quy mô. Tại tọa đàm do Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức sáng 15/8, các chuyên gia đã chỉ rõ nguyên nhân khiến khu vực này “ngại lớn” và đề xuất loạt giải pháp để biến kinh tế tư nhân thành đầu kéo tăng trưởng.
(VNF) - Chuyên gia Bùi Kiến Thành đã chia sẻ nhiều góc nhìn, nhiều định hướng cho Việt Nam trên con đường vươn tầm kinh tế toàn cầu trong giai đoạn tới, như trung tâm trung chuyển hàng không ở Chu Lai, trung tâm hàng hải ở Vân Phong, trung tâm tài chính quốc tế tại TP. HCM, hay trung tâm dữ liệu tại Lâm Đồng.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?