Sửa Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp: Rất cần những đột phá
Nguyễn Văn Toàn, PCT Vafie -
27/04/2019 07:02 (GMT+7)
(VNF) - Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2014 đang được nghiên cứu sửa đổi bổ sung. Nhiều ý kiến cho rằng, việc chỉnh sửa lần này cần những đột phá nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập, tạo điều kiện cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch, tạo thuận lợi cho việc gia nhập thị trường, hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Tuy vậy, qua hơn ba năm thực hiện, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp đã bộc lộ một số bất cập:
Về lĩnh vực ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (ĐTKDCĐK) và điều kiện ĐTKD, đây thực sự là rào cản cho quá trình tự do hóa hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp và người dân, một số lĩnh vực và rất nhiều điều kiện ĐTKD không phù hợp với nguyên tắc các ngành nghề ĐTKDCĐK là các ngành nghề có khả năng ảnh hưởng không tốt đến “quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Cần rà soát loại bỏ những ĐKĐTKD không phù hợp, trình quốc hội sửa đổi, bổ sung điều 6 và điều 7 của Luật Đầu tư.
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp là hai luật chủ đạo trong điều chỉnh hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cách tiếp cận rộng và bao quát nên còn nhiều nội dung thiếu đồng bộ với các luật chuyên ngành. Các luật khác như Luật Đầu tư công, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Nhà ở... cũng điều chỉnh hoạt động đầu tư của doanh nghiệp ở các phạm vi và mức độ khác nhau nhưng chưa có sự phân định rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong việc xác định hoạt động đầu tư được điều chỉnh theo quy định của Luật Đầu tư hay luật chuyên ngành khác.
Theo báo cáo của ban soạn thảo, một số quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp còn thiếu cụ thể dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện như:
Luật Đầu tư chưa quy định cụ thể khái niệm, mục đích, giá trị pháp lý, phạm vi áp dụng thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư phù hợp với từng hình thức đầu tư và nguồn vốn sử dụng, chưa phân định rõ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư với thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất theo quy định tương ứng của Luật Đất đai và Luật Đấu thầu. Chưa có quy định hợp lý về phân cấp thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính trong hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Quy định về hình thức đầu tư, thủ tục thành lập tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), thủ tục góp vốn mua cổ phần của nhà ĐTNN và thủ tục triển khai dự án đầu tư còn một số nội dung thiếu cụ thể dẫn đến cách hiểu khác nhau trong quá trình thực hiện.
Luật Đầu tư chưa làm rõ mục đích, giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài; hình thức đầu tư ra nước ngoài chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Đối với doanh nghiệp nhà nước, hồ sơ, trình tự quyết định đầu tư ra nước ngoài chưa được quy định thống nhất giữa Luật Đầu tư và Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
Quy định của Luật Doanh nghiệp về việc áp dụng luật chuyên ngành liên quan đến thủ tục thành lập doanh nghiệp dẫn đến phân tán đầu mối đăng ký thành lập doanh nghiệp, chưa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp khi có nhu cầu thay đổi hoạt động kinh doanh. Một số quy định về quản trị doanh nghiệp còn thiếu linh hoạt.
Từ những bất cập nêu trên, với mục tiêu tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho người dân và doanh nghiệp, gắn với việc thức hiện Nghị quyết 19/NQ-CP, Nghị quyết 35/NQQ-CP, Nghị quyết 139/NQQ-CP của chính phủ, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp lần này tập trung vào ba nội dung chính:
Một là, hoàn thiện các quy định về ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh.
Hai là, giảm thiểu các chi phí đầu tư kinh doanh thông qua cải cách thủ tục hành chính, nâng cao quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Ba là, hoàn thiện cơ chế phân cấp và phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư ra nước ngoài, đảm bảo hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Như vậy, những bất cập của Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp 2014 trong quá trình thực hiện bốn năm qua đã được rà soát, phát hiện, phân tích đề xuất bổ sung, điều chỉnh phù hợp góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp.
Tuy vậy, kỳ vọng của người dân và doanh nghiệp trong lần sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp còn cao hơn thế.
Thứ nhất, cần đặt Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ của kinh tế Việt Nam với kinh tế toàn cầu, khi hàng loạt các hiệp định thương mại tự do FTA trong đó có nhiều FTA thế hệ mới đã được ký kết, đang và sẽ được thực thi, rất nhiều cơ hội và không ít thách thức của các FTA đang hiện hữu, muốn tận dụng tốt các cơ hội, vượt qua các thách thức, hiện thực hóa kết quả của hội nhập, chúng ta cần những thay đổi căn bản tích cực theo hướng cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế mà trước hết là hệ thống chính sách, pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp và người dân.
Thứ hai, cần đặt Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển mà Việt Nam không thể đứng ngoài, khi nhà nước và chính phủ đang đặt kỳ vọng và quyết tâm rất lớn để tận dụng cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0, tạo bước phát triển bứt phá cho kinh tế xã hội đất nước.
Thứ ba, cũng cần đặt Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp trong bối cảnh phong trào khởi nghiệp đang được phát huy mạnh mẽ, với tinh thần quốc gia khởi nghiệp, xây dựng thương hiệu Việt (thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu vùng, địa phương và thương hiệu quốc gia) đang là định hướng cho phát triển bền vững.
Thứ tư, trong xu thế hội nhập hiện nay, nhiều quốc gia đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư để cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài FDI nhất là các dự án lớn có công nghệ cao. Trung Quốc vừa thông qua Luật ĐTNN mới với nhiều cải thiện về môi trường đầu tư là một là một minh chứng.
Một số nội dung cụ thể cần nghiên cứu xem xét liệu có thể đưa vào Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp lần này.
Về đầu tư nước ngoài FDI
Sau 30 năm thu hút FDI những thành quả của FDI là không thể phủ nhận. Khu vực FDI đã đóng góp khoảng 20%thu nội địa, gần 20% GDP, đóng góp 70% xuất khẩu, xuất siêu khoảng 25%. FDI đã tạo việc làm cho 4 triệu lao động trực tiếp và 10 trệu lao động gián tiếp, nâng cao trình độ,tác phong và kỹ năng lao động trong đó có lao động kỹ thuật và lao động quản lý.
FDI đã thúc đẩy chuyển giao và phát triển công nghệ, góp phần vào công nghiệp hóa hiện đại hóa. FDI cũng góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo hiệu ứng lan tỏa giúp các doanh nghiệp trong nước phát triển. Bên cạnh đó, FDI cũng góp phần thúc đẩy hội nhập, thúc đẩy cải cách thể chế, cải cách, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, phát triển kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Tuy nhiên, hoạt động FDI trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế:
Thứ nhất, hiệu quả FDI thấp: nhiều doanh nghiệp FDI tập trung khai thác lao động giản đơn, gia công lắp ráp, hàm lượng công nghệ thấp, tiêu tốn nhiều năng lượng, giá trị gia tăng không cao; thiếu cơ chế ưu đãi thích đáng và cơ chế giám sát thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc của kinh tế thị trường đặc biệt là ở phân khúc công nghệ cao, công nghệ nguồn.
Thứ hai, sự liên kết và tính lan tỏa của các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp nội địa còn rất hạn chế, chưa có những ưu đãi thích đáng để các doanh nghiệp FDI liên kết chiều sâu với các doanh nghiệp nội địa như phát triển công nghiệp phụ trợ, tham gia chuỗi giá trị hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI. Mặt khác chưa có những chính sách và chương trình hiệu quả hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa phát triển để có thể hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp FDI trên địa bàn.
Thứ ba: về đối tác đầu tư. Tuy đã có quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào Việt Nam, nhưng chúng ta chưa có môi trường đầu tư đủ hấp dẫn và có tính chọn lọc để thu hút được nhiều hơn các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực về tài chính và công nghệ đến từ các nước phát triển có công nghệ cao, công nghệ nguồn đầu tư vào Việt Nam. Theo số liệu của cục ĐTNN, tính đến hết năm 2018, Mỹ đứng thứ 11 trong các quốc gia vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng ký là hơn 9,3 tỷ USD (trong khi đó mỗi năm Mỹ đầu tư ra nước ngoài khoảng 300 tỷ USD). Tương tự như vậy, tổng số vốn đăng ký của 28 nước trong liên minh Châu Âu - EU đầu tư vào Việt Nam đến tháng 12/2018 khoảng hơn 25 tỷ USD, trong đó Cộng hòa liên bang Đức đứng thứ 18 đầu tư vào Việt Nam với số vốn đang ký gần 1,95 tỷ USD (trong khi mỗi năm Đức đầu tư ra nước ngoài khoảng 70 tỷ USD). Một con số rất khiêm tốn so với tiềm năng thu hút ĐTNN từ Mỹ và EU vào Việt Nam.
Thứ tư: Về lĩnh vực đầu tư, Việt Nam là một nước nông nghiệp truyền thống, có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao, song thu hút ĐTNN vào nông nghiệp trong thời gian qua là một bức tranh khá ảm đạm, theo số liệu của Cục ĐTNN, tính đến cuối năm 2018 cả nước có 491 dự án ĐTNN vào nông nghiệp với số vốn đăng ký gần 3,45 tỷ USD, chiếm khoảng 1% tổng số vốn FDI đăng ký đầu tư vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, không ít các tiêu cực nảy sinh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN tại Việt Nam, một số dự án gây ô nhiễm môi trường, chuyển giá trốn thuế, tranh chấp lao động... mà chưa được kiểm soát và xử lý thích đáng theo pháp luật.
Từ những phân tích trên, đầu tư nước ngoài cần một tư duy đổi mới thực sự và căn bản.
Với tinh thần đó, sửa đổi Luật Đầu tư lần này cần có những chuyển biến mang tính đột phá nhằm khắc phục những bất cập, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTNN, hiệu lực quản lý nhà nước. Cụ thể: cần hoàn thiện các quy định liên quan đến hình thức M&A, PPP, hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng hình thành khung phân loại có trọng tâm, trọng điểm ưu đãi theo ngành, lĩnh vực gắn với địa phương, vùng lãnh thổ trong từng giai đoạn, ưu tiên thu hút các dự án từ các quốc gia phát triển có công nghệ cao, công nghệ nguồn.
Xây dựng bộ tiêu chí các mức ưu đãi để thực hiện chủ trương hậu ưu đãi một cách minh bạch, ổn định. Bộ tiêu chí ưu đãi được thiết kế thống nhất trong cả nước, được chi tiết hóa phù hợp với điều kiện từng địa phương. Xây dựng cơ chế ưu đãi linh hoạt, bao gồm cả biện pháp phi tài chính nhằm tăng cường khả năng thu hút dòng ĐTNN từ các đối tác tiềm năng, TNCs vào các dự án đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế đất nước.
Về Luật Doanh nghiệp, hiện tại trên phạm vi cả nước có gần 5 triệu hộ kinh doanh có đăng ký, tạo gần 10 triệu việc làm, đóng góp khoảng 13% GDP. Trong khi đó, chưa có văn bản pháp luật nào quy định về quyền và nghĩa vụ, địa vị pháp lý của hộ kinh doanh. Luật Doanh nghiệp 2014 cũng không đưa hộ kinh doanh vào đối tượng điều chỉnh của Luật (điều 1 Luật Doanh nghiệp 2014), song điều 212 của luật này lại quy định “hộ kinh doanh có quy mô nhỏ thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của chính phủ”. Hơn nữa, bản chất hoạt động của hộ kinh doanh không khác gì hoạt động của doanh nghiệp.
Đây thực sự là một bất cập. Trong lần sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp lần này, nên chăng, đưa hộ kinh doanh vào đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, trên cơ sở đó xác định rõ quyền, nghĩa vụ và địa vị pháp lý, có chính sách hỗ trợ phát triển và hỗ trợ chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp.
Tạo bước đột phá trong Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp thực sự là nhu cầu khách quan trong tiến trình đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước.
(VNF) - Chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên cho rằng, việc phát triển kinh tế tư nhân không thể là bài toán tách rời từng nhóm chủ thể, mà phải là chiến lược toàn diện dựa trên cấu trúc hệ sinh thái liên kết đa tầng. Để kiến tạo một hệ sinh thái như vậy, điều kiện tiên quyết là phải dỡ bỏ “trần thể chế” và thiết kế lại chính sách theo “số đo riêng” cho từng tầng doanh nghiệp, thay vì “may đồng phục” như hiện nay.
(VNF) - Bình luận về mục tiêu tăng trưởng 8% và hướng tới hai con số trong tương lai, TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia tài chính ngân hàng, Kinh tế trưởng BIDV, khẳng định hiện nay Việt Nam đang có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện.
(VNF) - Trao đổi với Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica
Việt Nam, khẳng định mục tiêu tăng trưởng 8% và hướng tới hai con số là hoàn toàn khả thi
nếu như có thể tháo gỡ được những điểm nghẽn đang kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
(VNF) - Năm 2025, DN phải đối mặt với nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước. Thị trường thế giới tiềm ẩn nhiều biến động khi cuộc chiến thuế quan này càng nóng lên, nhu cầu trong nước phục hồi chậm... Trong khi đó những điểm nghẽn về môi trường kinh doanh, thiếu vốn vẫn chưa được xử lý dứt điểm.
(VNF) - Theo đánh giá của các chuyên gia, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP là 8%, thì tăng trưởng tín dụng 16% là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, mục tiêu này có đạt được hay không phải dựa trên khả năng hấp thụ vốn của thị trường.
(VNF) - Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% trở lên trong năm 2025, GS.TSKH Nguyễn Mại cho rằng cần phải lưu ý đến tình hình sản xuất, mở rộng, nâng cao năng lực của doanh nghiệp.
(VNF) - “Cuộc cách mạng” tinh gọn bộ máy được đánh giá sẽ tạo ra những thay đổi quan trọng trong cơ cấu thu – chi ngân sách, thúc đẩy sự chuyển động nhanh, mạnh, hiệu quả của bộ máy hành chính, mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế trong dài hạn.
(VNF) - Để tạo được đột phá trong cải cách thể chế, Luật sư Nguyễn Tiến Lập, trọng tài viên Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam, cho rằng phải từ bỏ được tư duy không quản được thì cấm.
(VNF) - Trong nền kinh tế có chế độ tỷ giá tương đối cố định như Việt Nam, chính sách tiền tệ sẽ ít hiệu quả hơn so với chính sách tài khóa, vì vậy trong ngắn hạn, đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn đầu tư công hiệu quả sẽ mang lại tác động tích cực hơn.
(VNF) - PGS-TS Trần Đình Thiên - Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao cần cách tiếp cận khác thường. Theo đó, để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu và hướng đi trong năm 2025 là tập trung phát triển kinh tế số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) và kinh tế xanh.
(VNF) - Ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Quản lý Quỹ VCBF cho biết:
Trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, thực tế đầu tư tư nhân mới chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong những năm gần đây, đầu tư tư nhân tăng trưởng rất chậm, năm 2023 là gần 3% năm 2024 là khoảng 8 - 9%, thấp hơn mức tăng trưởng trung bình 15% của các năm trước dịch.
(VNF) - Về quyết định Mỹ áp thuế 25% với mặt hàng sắt thép của tất cả các nước, một số doanh nghiệp sắt thép khẳng định khi các doanh nghiệp ở các nước khác cũng chịu cùng chung mức thuế như Việt Nam khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt sẽ cao hơn.
(VNF) - Trong những năm qua, chúng ta thường tiếp cận với thông tin rằng tăng trưởng GDP của Việt Nam chủ yếu dựa vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), còn doanh nghiệp tư nhân trong nước chỉ đóng góp rất ít, thậm chí chỉ chiếm 10% GDP. Tuy nhiên, thông tin này không chính xác và đã trở nên lạc hậu, theo chia sẻ của doanh nhân Đỗ Cao Bảo, thành viên HĐQT tập đoàn FPT.
(VNF) - Ông Phan Đức Hiếu - Uỷ viên thường trực, Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội khẳng định, nếu chúng ta phát huy được năng lực của doanh nghiệp nội địa cũng như nguồn lực trong nước thì sự phát triển sẽ bền vững và lâu dài hơn.
(VNF) - Khi nhu cầu đầu tư và tích trữ vàng của người dân vẫn duy trì ở mức cao, thị trường vàng trở nên sôi động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều biến động. Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp quản lý hiệu quả không chỉ giúp ổn định thị trường mà còn góp phần đảm bảo sự minh bạch, hạn chế rủi ro và bảo vệ quyền lợi của người dân.
(VNF) - Để có được mức tăng trưởng 8% cho 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số, Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI khẳng định: Thể chế là yếu tố mang tính quyết định việc chúng ta tiến hay lùi và vươn mình đến đâu.
(VNF) - Để nền kinh tế có thể đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số nếu có điều kiện thuận lợi, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP. HCM cho rằng, chúng ta cần thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt và theo diễn biến của thị trường, kèm theo đó là cần có những công cụ dự báo tốt, việc điều hành chính sách mang tính kịp thời hơn, tránh trường hợp sự việc đã xảy ra chúng ta mới tìm cách ứng phó thì sẽ không kịp bởi chính sách tiền tệ thường có độ trễ.
(VNF) - Về mục tiêu tăng trưởng 8%, thậm chí đạt hai con số nếu điều kiện thuận lợi, trao đổi với Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định, đây là mục tiêu cao, nhiều thách thức nhưng có thể đạt được và cần quyết tâm đạt được để tạo đà tăng trưởng bứt phá cho kỷ nguyên phát triển mới.
(VNF) - Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% cho 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số trong dài hạn. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động khó dự đoán, những khó khăn và thách thức trong nước vẫn khó đoán định thì việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng như trên dường như không phải dễ dàng.
(VNF) - PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân (Đại học Kinh tế TP. HCM) cho rằng câu chuyện của năm sau sẽ là sự đánh đổi giữa lãi suất và tỷ giá. Nếu muốn giảm lãi suất, Chính phủ phải hy sinh tỷ giá và ngược lại.
(VNF) - Để duy trì đà tăng trưởng trong năm 2025, việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với sự kết hợp cân bằng hơn giữa các chính sách tiền tệ và tài khóa là điều cần thiết. Trong thời gian tới, các chính sách phối hợp là rất quan trọng để hỗ trợ phục hồi kinh tế.
(VNF) - Trong bối cảnh nền kinh tế quốc dân còn nhiều khó khăn phía trước, kinh tế thế giới có nhiều biến động khó đoán, các động lực tăng trưởng cũ đã cạn, thì doanh nghiệp tư nhân được xem là sự kỳ
vọng của nền kinh tế. Bởi vậy, đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh là điều
hết sức quan trọng để doanh nghiệp tư nhân phát huy tối đa tiềm lực và phát triển mạnh mẽ.
(VNF) - Trong một thế giới VUCA (Biến động – Không chắc chắn – Phức tạp – Mơ hồ) thì có một điều ngày càng trở nên rõ ràng hơn là vai trò và vị thế không ngừng gia tăng của Việt Nam. Việc trở thành đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ cùng với đó là sự nâng cấp mối quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia lớn đã đưa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế gia tăng và mở ra những vận hội mới cho đất nước.
(VNF) - Nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025, ông Norman Lim - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam (SingCham Việt Nam) đã chia sẻ với Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance về những triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm mới với những yếu tố định hình tăng trưởng bền vững.
(VNF) - Trao đổi cùng Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương, khẳng định chính hệ thống pháp luật hiện nay là
“thủ phạm” khiến chúng ta tự trói buộc chính mình, kìm hãm sự phát triển. Ông cho rằng nếu khơi thông điểm nghẽn này thì việc kinh tế Việt Nam tăng trưởng hai con số là điều hoàn toàn có thể đạt được.
(VNF) - Chuyên gia kinh tế Trần Đình Thiên cho rằng, việc phát triển kinh tế tư nhân không thể là bài toán tách rời từng nhóm chủ thể, mà phải là chiến lược toàn diện dựa trên cấu trúc hệ sinh thái liên kết đa tầng. Để kiến tạo một hệ sinh thái như vậy, điều kiện tiên quyết là phải dỡ bỏ “trần thể chế” và thiết kế lại chính sách theo “số đo riêng” cho từng tầng doanh nghiệp, thay vì “may đồng phục” như hiện nay.
(VNF) - Cầu Quảng Đà bắc qua sông Yên, nối 2 địa phương sẽ thông xe kỹ thuật vào ngày 27/3 nhằm chào mừng kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng Quảng Nam và Đà Nẵng.