TS Vũ Đình Ánh nêu 8 rủi ro của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
Lê Nguyễn -
11/05/2022 16:42 (GMT+7)
(VNF) - Phát triển quá nóng trong thời gian ngắn, hạn chế công khai minh bạch, cuộc đua lãi suất cao... là những rủi ro hiện hữu của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
TS Vũ Đình Ánh
Trình bày tham luận tại hội thảo "Khơi thông dòng vốn cho thị trường bất động sản Việt Nam" tổ chức mới đây, chuyên gia tài chính, TS Vũ Đình Ánh nhận định trái phiếu doanh nghiệp là một trong những trụ cột quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đồng thời phát hành trái phiếu doanh nghiệp là một kênh huy động vốn phổ biến và thuận lợi của nhiều doanh nghiệp tại các nước có thị trường tài chính phát triển.
Tuy nhiên, thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn quá non trẻ của Việt Nam lại đang đối mặt với những rủi ro không nhỏ ảnh hưởng tới an ninh tài chính quốc gia. Theo TS Vũ Đình Ánh, có 8 rủi ro đang hiện hữu.
Thứ nhất, thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển quá nóng trong thời gian ngắn. Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), nếu năm 2018, các doanh nghiệp chỉ mới phát hành 224 nghìn tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp thì năm 2019 phát hành đạt 312.000 tỷ đồng, năm 2020 tăng lên đến 436.000 tỷ đồng và năm 2021 phát hành tăng vọt lên tới 722.700 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã vượt xa thị trường trái phiếu chính phủ chỉ trong thời gian ngắn: năm 2018, trái phiếu chính phủ đạt 190.000 tỷ đồng, năm 2019 đạt gần 300.000 tỷ đồng và năm 2020 trái phiếu chính phủ phát hành hơn 330.000 tỷ đồng.
Theo đó, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã tăng từ 4,93% GDP năm 2017 lên tới 16,6% GDP năm 2021, trong đó phát hành riêng lẻ vẫn là hình thức chủ đạo, chiếm khoảng 90% tổng lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Theo SSI, đến năm 2021, có khoảng 1,39 triệu tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp được lưu hành, góp phần đẩy quy mô thị trường cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp từ mức tương đương 68% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế năm 2020 lên mức tương đương 88% năm 2021.
Cũng theo VBMA, trong 2 tháng đầu năm 2022, thị trường ghi nhận 8 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng với tổng giá trị 5.509 tỷ đồng và 26 đợt phát hành riêng lẻ với tổng giá trị 22.185 tỷ đồng. Tổng giá trị trái phiếu phát hành trái phiếu ra công chúng tăng 31% và tổng giá trị phát hành trái phiếu riêng lẻ tăng 51% so cùng kỳ năm 2021.
Rõ ràng, “cơn lốc” trái phiếu doanh nghiệp đã khiến không chỉ các nhà đầu tư, nhà phát hành, định chế tài chính bị cuốn vào đó mà ngay cả cơ quan quản lý cũng có phần lúng túng và bị động. Những công cụ quản lý, giám sát thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi quy mô còn nhỏ và hầu như không phát triển trước năm 2018 đã không còn phù hợp với quy mô lên tới hàng triệu tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp như năm 2021.
Việc đầu tiên cần làm để lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp, theo TS Vũ Đình Ánh, là hạ nhiệt thị trường thông qua hoàn thiện các quy định về điều kiện phát hành, điều kiện bảo lãnh, hệ thống phân phối và hệ thống xếp hạng tín nhiệm đi đôi với nâng cao khả năng quản lý giám sát của cơ quan chức năng đối với tất cả các bên liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp và thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Thứ hai, một trong những tiêu chí hàng đầu của thị trường tài chính và chứng khoán nói chung, thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói riêng là phải đảm bảo tính công khai minh bạch và hạn chế bất đối xứng thông tin. Song, có thể nói thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam mấy năm gần đây hạn chế về công khai minh bạch thông tin, thậm chí có tình trạng thông tin sai lệch và che giấu thông tin khi có tới gần 80% giá trị phát hành thuộc về các doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Do đó, không chỉ thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp không đầy đủ, thiếu công khai minh bạch mà cả thông tin về việc sử dụng nguồn vốn từ trái phiếu doanh nghiệp cũng vậy.
Bên cạnh đó, mặc dù trái phiếu doanh nghiệp được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) song đại đa số doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp lại không phải tuân thủ các quy định chặt chẽ về công bố thông tin, về kế toán kiểm toán, về giao dịch tài chính như đối với các công ty niêm yết.
"Lỗ hổng quá lớn về yêu cầu công khai minh bạch thông tin đối với nhà phát hành trái phiếu doanh nghiệp cần sớm bịt lại thông qua quy định nghiêm ngặt ít nhất là không thấp hơn so với công ty niêm yết, cả trên sàn HNX cũng như trền HoSE", TS Ánh nêu quan điểm.
Thứ ba, về nguyên tắc, sức hấp dẫn của trái phiếu doanh nghiệp đối với nhà phát hành lần nhà đầu tư chính là lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp - nằm ở khoảng giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của hệ thống các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam mấy năm qua lại chứng kiến những mức lãi suất quá cao, trung bình khoảng 13%/năm, thậm chí có doanh nghiệp còn đưa ra mức lợi nhuận lên tới 18%/năm, gấp khoảng 3 lần so với lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại.
Chạy đua tăng lãi suất trái phiếu doanh nghiệp để cạnh tranh thu hút nhà đầu tư, thậm chí coi lãi suất là công cụ cạnh tranh duy nhất thay vì uy tín hay xếp hạng tín nhiệm của nhà phát hành vô hình trung đã khiến không ít đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp tiềm ẩn nguy cơ thua lỗ mất cả vốn lẫn lãi ngay từ khi phát hành chứ không cần đợi đến đáo hạn.
Chính lãi suất quá cao của trái phiếu doanh nghiệp làm cho cạnh tranh trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp mất đi tính lành mạnh, theo đó, những nhà phát hành có uy tín, được quốc tế xếp hạng tín nhiệm cao, có dự án khả thi, có tình hình tài chính lành mạnh đôi khi lại thua những nhà phát hành không có uy tín, đang lâm vào tình trạng tài chính khó khăn, thậm chí đang thua lỗ và coi phát hành thành công trái phiếu doanh nghiệp bằng mọi giá là "cứu tinh".
Thứ tư, thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng ồ ạt cùng với hàng loạt trái phiếu “3 không”: không tài sản đảm bảo, không xếp hạng tín nhiệm và không bảo lãnh thanh toán.
Theo Bộ Tài chính, trong năm 2021 có tới 94,5% lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành là trái phiếu riêng lẻ (trong 826 đợt phát hành 11 tháng năm 2021 thì có tới 803 đợt là phát hành riêng lẻ).
Chuyên gia SSI Research cho rằng các trái phiếu không có tài sản đảm bảo, hoặc đảm bảo hoàn toàn hoặc một phần bằng cổ phiếu là những "tài sản bất định" có mức độ rủi ro rất lớn.
Bên cạnh đẩy lãi suất trái phiếu doanh nghiệp lên cao tới mức phi lý như đã nêu trên thì những thông tin không minh bạch về vai trò bảo lãnh phát hành và bảo lãnh thanh toán của ngân hàng thương mại, đặc biệt là những ngân hàng thương mại lớn có uy tín (trong khi ngân hàng không phải là bên phát hành, cũng không là kênh phân phối, mà chỉ làm dịch vụ) khiến cho trái phiếu doanh nghiệp "Lợi cao" kiểu Việt Nam biến thành trái phiếu doanh nghiệp "Hạng cao" (cũng kiểu Việt Nam) và vẫn hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, việc thiếu công khai minh bạch thông tin sử dụng nguồn vốn huy động được từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng khiến rủi ro của nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp tăng cao.
Một số trường hợp phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảo nợ không chỉ làm méo mó thị trường trái phiếu doanh nghiệp mà còn gây rủi ro cho cả hệ thống tài chính nói chung, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng nói riêng.
Ngoài ra, tình trạng thao túng thị trường trái phiếu doanh nghiệp với những hàng hóa chất lượng thấp và thông tin mập mờ còn có sự tiếp tay của một số công ty chứng khoán.
"Chính vì vậy, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chỉ thật sự lành mạnh khi thiết lập lại quy định về mối quan hệ giữa doanh nghiệp phát hành với các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán, trong đó quy định rõ quyền và trách nhiệm của mỗi bên đối với nhà đầu tư nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân", TS Ánh bình luận.
Thứ năm, theo SSI, trong năm 2021, các doanh nghiệp bất động sản phát hành 318.200 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp. Đặc biệt, một nửa số trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ không có tài sản đảm bảo, nửa còn lại chủ yếu được đảm bảo bằng cổ phiếu của chính doanh nghiệp phát hành hoặc các dự án hình thành trong tương lai, vốn có tính biến động rất cao và khó định giá chính xác.
Bất chấp các quy định cấm bán trái phiếu riêng lẻ cho nhà đầu tư cá nhân, không ít nhà phát hành đã lách quy định. Theo Bộ Tài chính, có hơn 40% giá trị trái phiếu phát hành riêng lẻ nằm trong tay nhà đầu tư cá nhân, dù rất nhiều trong số đó không có chứng nhận nhà đầu tư chuyên nghiệp, tức không đủ điều kiện mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ.
Kênh phân phối trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu là qua các ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán. Đến lượt mình, một số ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán “xé lẻ” trái phiếu doanh nghiệp ra bán cho nhà đầu tư cá nhân.
Các ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán hiện là những nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường sơ cấp khi nắm giữ đến 52% tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong năm 2021, với tổng giá trị lên tới 373.000 tỷ đồng. Thậm chí, một số ngân hàng thương mại còn để cho một số cán bộ, nhân viên bán trái phiếu doanh nghiệp để hưởng hoa hồng trực tiếp và thay vì tư vấn khách hàng gửi tiết kiệm với lãi suất khoảng từ 6-7%/năm thì lại chào mời mua trái phiếu doanh nghiệp với lãi suất lên tới 11-18%/năm.
Những vi phạm công khai và ngày càng phổ biến trong phân phối trái phiếu doanh nghiệp cho nhà đầu tư cá nhân của một số ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán một phần do buông lỏng quản lý của cơ quan chức năng, phần khác do cả nhà phát hành, kênh phân phối lẫn nhà đầu tư cá nhân đều hưởng lợi từ đó, nhất là khi trái phiếu doanh nghiệp vẫn chủ yếu là "Hạng cao". Chỉ khi trái phiếu doanh nghiệp "Lợi cao" chiếm đa số và sự việc vỡ lở thì các bên mới đổ lỗi cho nhau và gánh chịu thiệt hại cuối cùng chính là các nhà đầu tư nhỏ lẻ tham lợi.
"Tổ chức lại kênh phân phối, ngăn chặn và xử lý nghiêm các vi phạm trong phân phối trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ nhằm bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư chân chính là nội dung quan trọng trong lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp", TS Ánh nhìn nhận.
Thứ sáu, trong số 15 ngân hàng thương mại được SSI Research quan sát với tổng dư nợ tín dụng chiếm khoảng 75% thị phần tín dụng toàn hệ thống thì tổng số dư trái phiếu các tổ chức kinh tế mà các ngân hàng thương mại đầu tư tính đến hết năm 2021 là khoảng 214.000 tỷ đồng, tăng 17% so với cuối năm 2020.
Ngân hàng thương mại đang nắm giữ lượng trái phiếu doanh nghiệp nhiều nhất đang là Techcombank với 62.809 tỷ đồng, tăng 34,4% so với cuối năm 2020; tiếp theo là MB với gần 43.000 tỷ đồng và VPBank với 27.782 tỷ đồng còn TPBank với 18.577 tỷ đồng.
Một số ngân hàng thương mại khác cũng đang sở hữu trên 10.000 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp là: BIDV, Vietcombank, VietinBank và HDBank.
Trên các chợ, diễn đàn, hội nhóm buôn bán trái phiếu, nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp được chào bán với lãi suất cao kèm theo những lời cam kết hấp dẫn như: được thế chấp trái phiếu doanh nghiệp để vay lại vốn ngân hàng, được ngân hàng bảo lãnh, được mua lại bởi chính đơn vị phát hành, được đảm bảo bằng bất động sản hoặc cổ phiếu…
Rủi ro sở hữu chéo giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp và giới kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp thuộc loại rủi ro hệ thống, có thể tác động tới an ninh tài chính tiền tệ quốc gia, đặc biệt là khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp lại kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản chứa đựng nhiều yếu tố đầu cơ.
Việc chỉnh sửa các quy định và giám sát chặt chẽ số lượng cũng như chất lượng các trái phiếu doanh nghiệp do ngân hàng thương mại nắm giữ không chỉ góp phần làm mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp mà còn làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và các định chế tài chính nói chung.
Thứ bảy, quy mô và tính chất phức tạp của thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng vọt với sự tham gia của hàng nghìn nhà phát hành và hàng vạn nhà đầu tư, cả chuyên nghiệp lẫn cá nhân, song khả năng quản lý giám sát của cơ quan chức năng đã không theo kịp.
Cụ thể, từ năm 2019, Bộ Tài chính chỉ tổ chức được hơn 30 đoàn kiểm tra tại các doanh nghiệp phát hành, công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại, qua đó chỉ xử phạt vi phạm hành chính và yêu cầu các biện pháp khắc phục hậu quả vỏn vẹn tại hai doanh nghiệp là VsetGroup và Apec Group; đồng thời xử phạt thêm Công ty Chứng khoán VIS.
"Tổ chức lại và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thị trường trái phiếu doanh nghiệp là nhiệm vụ cấp bách và đóng vai trò đặc biệt quan trọng trên hành trình lành mạnh hóa thị trường này, góp phần tích cực vào hình sự hóa các quan hệ kinh tế trên cơ sở phát hiện, phòng ngừa và ngăn chặn từ sớm những vi phạm có thể nảy sinh", TS Ánh nêu đề nghị.
Thứ tám, riêng năm 2021, phát hành trái phiếu doanh nghiệp của nhóm bất động sản đã lên tới 214.440 tỷ đồng, tương đương hơn 9 tỷ USD - tăng gấp 3 lần so với năm 2020 (71.000 tỷ đồng).
Mức lãi suất 8 - 13%/năm và tổng giá trị phát hành của nhóm doanh nghiệp bất động sản chiếm 36% tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trong đó khoảng 29% giá trị trái phiếu phát hành không có tài sản đảm bảo hoặc bảo đảm bằng cổ phiếu.
Nguồn vốn trái phiếu doanh nghiệp là nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất ổn định nên rất phù hợp với đặc điểm kinh doanh bất động sản, trở thành sự thay thế hoàn hảo cho sự phụ thuộc quá mức của thị trường bất động sản vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng như trước đây.
Tuy nhiên, lãi suất trái phiếu doanh nghiệp quá cao và những biến tướng trong phát hành, phân phối, sở hữu và sử dụng trái phiếu doanh nghiệp tự thân nó tạo ra rủi ro cho nhà phát hành, đến lượt nó làm gia tăng rủi ro cho thị trường bất động sản. Ngược lại, mỗi biến động trên thị trường bất động sản đều có thể gây ra rủi ro cho trái chủ của trái phiếu doanh nghiệp do doanh nghiệp bất động sản phát hành.
Nói cách khác, lành mạnh hóa thị trường trái phiếu doanh nghiệp cần song hành với lành mạnh hóa thị trường bất động sản và cả lành mạnh hóa thị trường tài chính ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 16/2021/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.
Chính thức có hiệu lực từ ngày 15/1/2022, Thông tư quy định tổ chức tín dụng chỉ được mua trái phiếu của tổ chức phát hành không có phát sinh nợ xấu trong 12 tháng gần nhất tại tất cả các tổ chức tín dụng; không được mua lại trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết đã bán và/hoặc trái phiếu phát hành cùng lô hoặc đợt với trái phiếu đã bán trong vòng 12 tháng; không được bán trái phiếu doanh nghiệp cho các công ty con. Thực tế tỷ trọng trái phiếu doanh nghiệp mà các ngân hàng thương mại nắm giữ liên tục giảm từ 71% hồi năm 2018 xuống còn 25% cuối năm 2021...
(VNF) - Theo PGS. TS. Trần Đình Thiên, việc lấn biển phải đặt trong câu chuyện muốn phát triển thì phải đánh đổi. Định hướng lấn biển để có không gian phát triển phải nghĩ một cách tích cực, đừng để mất cơ hội của Đà Nẵng và cũng là cơ hội của đất nước.
(VNF) - Theo đánh giá của các chuyên gia, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP là 8%, thì tăng trưởng tín dụng 16% là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, mục tiêu này có đạt được hay không phải dựa trên khả năng hấp thụ vốn của thị trường.
(VNF) - Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% trở lên trong năm 2025, GS.TSKH Nguyễn Mại cho rằng cần phải lưu ý đến tình hình sản xuất, mở rộng, nâng cao năng lực của doanh nghiệp.
(VNF) - “Cuộc cách mạng” tinh gọn bộ máy được đánh giá sẽ tạo ra những thay đổi quan trọng trong cơ cấu thu – chi ngân sách, thúc đẩy sự chuyển động nhanh, mạnh, hiệu quả của bộ máy hành chính, mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế trong dài hạn.
(VNF) - Để tạo được đột phá trong cải cách thể chế, Luật sư Nguyễn Tiến Lập, trọng tài viên Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam, cho rằng phải từ bỏ được tư duy không quản được thì cấm.
(VNF) - Trong nền kinh tế có chế độ tỷ giá tương đối cố định như Việt Nam, chính sách tiền tệ sẽ ít hiệu quả hơn so với chính sách tài khóa, vì vậy trong ngắn hạn, đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn đầu tư công hiệu quả sẽ mang lại tác động tích cực hơn.
(VNF) - PGS-TS Trần Đình Thiên - Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao cần cách tiếp cận khác thường. Theo đó, để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu và hướng đi trong năm 2025 là tập trung phát triển kinh tế số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) và kinh tế xanh.
(VNF) - Ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Quản lý Quỹ VCBF cho biết:
Trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, thực tế đầu tư tư nhân mới chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong những năm gần đây, đầu tư tư nhân tăng trưởng rất chậm, năm 2023 là gần 3% năm 2024 là khoảng 8 - 9%, thấp hơn mức tăng trưởng trung bình 15% của các năm trước dịch.
(VNF) - Về quyết định Mỹ áp thuế 25% với mặt hàng sắt thép của tất cả các nước, một số doanh nghiệp sắt thép khẳng định khi các doanh nghiệp ở các nước khác cũng chịu cùng chung mức thuế như Việt Nam khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt sẽ cao hơn.
(VNF) - Trong những năm qua, chúng ta thường tiếp cận với thông tin rằng tăng trưởng GDP của Việt Nam chủ yếu dựa vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), còn doanh nghiệp tư nhân trong nước chỉ đóng góp rất ít, thậm chí chỉ chiếm 10% GDP. Tuy nhiên, thông tin này không chính xác và đã trở nên lạc hậu, theo chia sẻ của doanh nhân Đỗ Cao Bảo, thành viên HĐQT tập đoàn FPT.
(VNF) - Ông Phan Đức Hiếu - Uỷ viên thường trực, Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội khẳng định, nếu chúng ta phát huy được năng lực của doanh nghiệp nội địa cũng như nguồn lực trong nước thì sự phát triển sẽ bền vững và lâu dài hơn.
(VNF) - Khi nhu cầu đầu tư và tích trữ vàng của người dân vẫn duy trì ở mức cao, thị trường vàng trở nên sôi động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều biến động. Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp quản lý hiệu quả không chỉ giúp ổn định thị trường mà còn góp phần đảm bảo sự minh bạch, hạn chế rủi ro và bảo vệ quyền lợi của người dân.
(VNF) - Để có được mức tăng trưởng 8% cho 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số, Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI khẳng định: Thể chế là yếu tố mang tính quyết định việc chúng ta tiến hay lùi và vươn mình đến đâu.
(VNF) - Để nền kinh tế có thể đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số nếu có điều kiện thuận lợi, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP. HCM cho rằng, chúng ta cần thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt và theo diễn biến của thị trường, kèm theo đó là cần có những công cụ dự báo tốt, việc điều hành chính sách mang tính kịp thời hơn, tránh trường hợp sự việc đã xảy ra chúng ta mới tìm cách ứng phó thì sẽ không kịp bởi chính sách tiền tệ thường có độ trễ.
(VNF) - Về mục tiêu tăng trưởng 8%, thậm chí đạt hai con số nếu điều kiện thuận lợi, trao đổi với Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định, đây là mục tiêu cao, nhiều thách thức nhưng có thể đạt được và cần quyết tâm đạt được để tạo đà tăng trưởng bứt phá cho kỷ nguyên phát triển mới.
(VNF) - Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% cho 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số trong dài hạn. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động khó dự đoán, những khó khăn và thách thức trong nước vẫn khó đoán định thì việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng như trên dường như không phải dễ dàng.
(VNF) - PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân (Đại học Kinh tế TP. HCM) cho rằng câu chuyện của năm sau sẽ là sự đánh đổi giữa lãi suất và tỷ giá. Nếu muốn giảm lãi suất, Chính phủ phải hy sinh tỷ giá và ngược lại.
(VNF) - Để duy trì đà tăng trưởng trong năm 2025, việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với sự kết hợp cân bằng hơn giữa các chính sách tiền tệ và tài khóa là điều cần thiết. Trong thời gian tới, các chính sách phối hợp là rất quan trọng để hỗ trợ phục hồi kinh tế.
(VNF) - Trong bối cảnh nền kinh tế quốc dân còn nhiều khó khăn phía trước, kinh tế thế giới có nhiều biến động khó đoán, các động lực tăng trưởng cũ đã cạn, thì doanh nghiệp tư nhân được xem là sự kỳ
vọng của nền kinh tế. Bởi vậy, đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh là điều
hết sức quan trọng để doanh nghiệp tư nhân phát huy tối đa tiềm lực và phát triển mạnh mẽ.
(VNF) - Trong một thế giới VUCA (Biến động – Không chắc chắn – Phức tạp – Mơ hồ) thì có một điều ngày càng trở nên rõ ràng hơn là vai trò và vị thế không ngừng gia tăng của Việt Nam. Việc trở thành đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ cùng với đó là sự nâng cấp mối quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia lớn đã đưa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế gia tăng và mở ra những vận hội mới cho đất nước.
(VNF) - Nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025, ông Norman Lim - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam (SingCham Việt Nam) đã chia sẻ với Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance về những triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm mới với những yếu tố định hình tăng trưởng bền vững.
(VNF) - Trao đổi cùng Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương, khẳng định chính hệ thống pháp luật hiện nay là
“thủ phạm” khiến chúng ta tự trói buộc chính mình, kìm hãm sự phát triển. Ông cho rằng nếu khơi thông điểm nghẽn này thì việc kinh tế Việt Nam tăng trưởng hai con số là điều hoàn toàn có thể đạt được.
(VNF) - Giám đốc Quốc gia, Viện Tony Blair tại Việt Nam cho rằng, nền tảng thiết yếu để một Trung tâm tài chính quốc tế thành công là ở thiết kế thể chế.
(VNF) - TS Phạm Hùng Tiến - Chuyên gia về đầu tư FDI chỉ ra rằng, các tỉnh Phía Bắc có giá trị xuất khẩu thuộc nhóm dẫn đầu cả nước nhưng lại nằm ngoài nhóm 10 thu ngân sách lớn. Điều này phần nào cho thấy, phần nhận được từ các "kỳ tích" xuất khẩu mà doanh nghiệp FDI mang lại là không tương xứng, thậm chí là rất ít.
(VNF) - Chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành khẳng định, các tập đoàn lớn trên thế giới đang bắt tay tạo ra những 'game' mới và điều ngại là liệu các doanh nghiệp Việt có đủ năng lực để ứng xử với những 'gã khổng lồ', các tập đoàn đa quốc gia hay không chứ chưa nói đến câu chuyện vốn hay công nghệ.
(VNF) - Theo PGS. TS. Trần Đình Thiên, việc lấn biển phải đặt trong câu chuyện muốn phát triển thì phải đánh đổi. Định hướng lấn biển để có không gian phát triển phải nghĩ một cách tích cực, đừng để mất cơ hội của Đà Nẵng và cũng là cơ hội của đất nước.