Vì sao cần có Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư?
GS Nguyễn Mại -
24/11/2019 06:40 (GMT+7)
(VNF) - Việt Nam là nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng chiếm 5,7% GDP, cao nhất ASEAN. Theo ADB thì nhu cầu vốn đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam giai đoạn 2017-2030 khoảng 480 tỷ USD; một phần là vốn ngân sách, ODA, vốn trái phiếu công trình, phần lớn là vốn xã hội chủ yếu được huy động bằng phương thức đối tác công - tư (Private - Public Partnership)
Cần có Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư. (Ảnh minh họa)
Từ kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam, Luật Đầu tư PPP cần lưu ý những vấn đề sau đây:
Cơ chế bảo lãnh
PPP đã được thực hiện ở nước ta từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, nhưng chưa thành công đối với các dự án giao thông, nhà đầu tư trong nước tham gia còn ít lại gặp nhiều vướng mắc; nhà đầu tư nước ngoài chưa tham gia. Có nhiều nguyên nhân, quan trọng nhất là thiếu cơ sở pháp lý minh bạch, ổn định, hấp dẫn.
Hiện nay đầu tư PPP được Nghị định 63/2018/NĐ-CP ngày 4/5/2018 điều chỉnh. Nghị định này quy định thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP; mở rộng các nguồn vốn nhà nước tham gia dự án PPP; quy định chặt chẽ hơn đối với dự án BT; bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án PPP; bổ sung quy trình thực hiện dự án PPP áp dụng công nghệ cao; đẩy mạnh việc phân cấp cho các đơn vị sự nghiệp công lập, đồng thời tiếp tục tăng cường công khai, minh bạch thông tin về dự án PPP.
Tuy vậy, thiếu cơ chế bảo lãnh, chia sẻ rủi ro là nguyên nhân chính hạn chế sự hấp dẫn với các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài. Cơ chế bảo lãnh, chia sẻ rủi ro đã được thảo luận trong nhiều diễn đàn, hội nghị nhưng do Nghị định này tuân thủ các quy định tại các luật hiện hành, nên được xem xét, bổ sung trong dự thảo Luật Đầu tư PPP.
Đối với nhà đầu tư trong nước, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các dự án BOT, BT vì bản thân các ngân hàng thương mại khi cho vay dài hạn cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro do trong khi năng lực tài chính của nhà đầu tư có hạn, tài sản đảm bảo là quyền thu phí với chính sách và hợp đồng thu phí hay thay đổi, thiếu đồng bộ (tính đến tháng 9/2019 có 30 dự án BOT doanh thu không bảo đảm trả nợ cho ngân hàng).
Do vậy, Luật Đầu tư PPP (dự thảo) phải quy định rõ ràng, minh bạch cơ chế bảo lãnh, chia sẻ rủi ro để nhà đầu tư vay tín dụng NH: chủ đầu tư phải bố trí đủ vốn đối ứng, cơ quan nhà nước cam kết vốn hỗ trợ công trình, Bộ GTVT và chính quyền địa phương phải bảo đảm hoạt động của các trạm thu phí và lộ trình tăng phí.
Nhóm chuyên gia tư vấn của Hàn Quốc về Dự án “Hỗ trợ phát triển Khung pháp lý về Đầu tư PPP tại Việt Nam” kiến nghị: “Chính phủ hoặc chia sẻ rủi ro nhiều hơn với nhà đầu tư, hoặc đảm bảo lợi nhuận cao cho nhà đầu tư, nói cách khác là bảo lãnh dự án”. Hàn Quốc trước đây có hai cơ chế hấp dẫn nhà đầu tư: (1) đảm bảo doanh thu tối thiểu (MRG) và (2) cơ chế tự chủ đề suất dự án với Chính phủ. Hiện nay cơ chế MRG đang được thu hẹp; cơ chế chia sẻ rủi ro được xử lý thông qua Chính phủ trực tiếp chi trả khoản bảo lãnh hỗ trợ nhà đầu tư, hoặc đàm phán kéo dài thời gian Hợp đồng PPP.
Tại cuộc họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban kinh tế đề xuất nhiều mức lãi suất tín dụng: nhà đầu tư bảo đảm 50% vốn đối ứng, vay 50% của NH thì được hưởng lãi suất 6%/năm (nhà nước cấp bù lãi suất); nếu nhà đầu tư chỉ bảo đảm 30% vốn đối ứng thì lãi suất tiền vay 9-11%/năm.
Có ý kiến không đồng tình vì cho rằng, thực chất của cơ chế này là cấp bù lãi suất đã được thực hiện trước đây, chưa giải quyết được vấn đề rủi ro tín dụng bắt nguồn từ rủi ro chính sách, làm cho thị trường tín dụng méo mó do nhiều lãi suất ưu đãi.
Tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP
Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng cho biết: dự thảo luật giao Chính phủ quy định tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP từng lĩnh vực nhưng không thấp hơn 200 tỷ đồng, giá trị này không áp dụng đối với loại hợp đồng kinh doanh - quản lý (O&M).
Ủy ban Kinh tế Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo quy định tổng mức đầu tư tối thiểu đối với các lĩnh vực cũng như làm rõ hơn căn cứ, cơ sở của việc không quy định tổng mức đầu tư tối thiểu đối với dự án áp O&M.
Ủy ban Kinh tế Quốc hội cũng đề nghị cơ quan soạn thảo quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP gắn với việc phân loại dự án, phù hợp với đặc thù của phương thức đầu tư PPP, tạo điều kiện cho việc triển khai dự án có hiệu quả, có tính khả thi và bảo đảm lợi ích của các bên.
Đa số ý kiến tại cơ quan thẩm tra cho rằng, trong cơ chế quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư dự án PPP, để đảm bảo tính minh bạch cũng như thuận lợi trong quá trình thanh tra, kiểm toán dự án thì cần tách phần vốn nhà nước trong dự án PPP thành một dự án thành phần riêng biệt. Vốn nhà nước tham gia dự án PPP nên ưu tiên sử dụng phục vụ công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Thủ tục đầu tư
Ủy ban Kinh tế yêu cầu ban soạn thảo làm rõ hơn trong dự thảo Luật Đầu tư PPP hạng mục đầu tư nào sử dụng vốn hỗ trợ của Nhà nước thì áp dụng thủ tục đầu tư công, hạng mục đầu tư nào sử dụng vốn đầu tư tư nhân thì áp dụng thủ tục đầu tư thông thường, tránh việc thủ tục đầu tư dự án PPP không khác thủ tục đầu tư công nên khó thu hút đầu tư tư nhân.
Đây là vấn đề có liên quan không những đến Luật PPP (dự thảo) mà còn các luật có liên quan. Ví dụ, điều 3, khoản 8, Luật Đầu tư (2014) xuất phát từ góc nhìn của nhà đầu tư tư nhân để đưa ra định nghĩa về đầu tư PPP, thay cho định nghĩa trong Luật Đầu tư công năm 2014 được ban hành cùng thời điểm
Khuyết điểm này phần nào đã được khắc phục tại khoản 1, điều 4 dự thảo Luật Đầu tư PPP bằng việc dẫn chiếu đến khái niệm “hợp đồng nhượng quyền”; tuy vậy khoản 6, điều 4 định nghĩa: “Hợp đồng nhượng quyền là văn bản, tài liệu được ký kết giữa cơ quan có thẩm quyền ký kết hợp đồng và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án, trong đó quy định chi tiết các điều khoản về mục tiêu, phạm vi, các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện dự án, phân chia rủi ro, điều kiện thực hiện, vận hành dự án”; không phân biệt được bản chất của “nhượng quyền” trong đầu tư PPP và “nhượng quyền” thương mại thuần túy.
Quy định này xuất hiện ở mọi dự án của Nhà nước, mọi dự án nhượng quyền thương mại hay nói cách khác, với định nghĩa này, rất khó phân biệt một dự án PPP với một dự án đầu tư công thuần túy, dự án mua sắm công theo hợp đồng EPC, dự án thuê ngoài dịch vụ tin học, dịch vụ dọn dẹp môi trường từ đối tác tư nhân, dự án cho thuê tài sản công...
PPP là hoạt động kinh doanh, thương mại
Việc coi đầu tư PPP là một hoạt động “kinh doanh, thương mại” thể hiện ở điều 112 dự thảo Luật Đầu tư PPP sẽ dẫn tới các hệ quả sau:
Thứ nhất, bên đối tác tư nhân sẽ vin vào “bí mật kinh doanh, thương mại” để yêu cầu đóng dấu mật; ký các thỏa thuận bảo mật đối với dự án PPP. Điều này dẫn tới người dân với tư cách là chủ thể đóng thuế phí, sử dụng dịch vụ công lại bị gạt ra ngoài rìa quá trình hình thành, đàm phán, thỏa thuận nội dung cụ thể của dự án; chỉ đến khi bị chặn lại thu phí thì họ mới biết được quyền lợi của mình bị ảnh hưởng như thế nào và dẫn đến tụ tập đông người để phản đối, đẩy ba bên là Nhà nước, nhà đầu tư, người sử dụng dịch vụ vào trạng thái bế tắc.
Thứ hai, do không xuất phát từ bổn phận cung cấp dịch vụ công của dự án PPP, nên pháp luật về PPP chưa lưu ý ban hành các danh mục, phân loại dự án, xây dựng tiêu chí tối thiểu mà mỗi dự án PPP phải đạt được trong việc cung cấp dịch vụ công, ví dụ số lượng rác thải được xử lý theo công nghệ kỳ vọng, chất lượng nước sau xử lý... Ông Đặng Huy Đông, nguyên Thứ trưởng Bộ KH&ĐT cho biết tại phiên thẩm tra dự thảo Luật PPP tại Ủy ban Kinh tế ngày 29/8/2019: các hợp đồng PPP đang soạn thảo theo cách bám vào các tiêu chí kỹ thuật, công nghệ, mà không bám vào mục tiêu là dự án PPP phải cung cấp cho xã hội các hàng hóa công cộng đặc biệt.
Thứ ba, nếu xuất phát từ góc nhìn nhà nước và người nộp thuế, hợp đồng nhượng quyền sẽ mang bản chất “công”, được đối xử tương tự như một hành vi hành chính, quyết định hành chính và cho phép tòa án tuyên hủy nó khi việc đề nghị giao kết, đàm phán, ký kết hợp đồng này vi phạm thủ tục, thẩm quyền (nội bộ giữa các cơ quan nhà nước với nhau). Ngược lại, nếu dự thảo Luật Đầu tư PPP tiếp tục đối xử với PPP từ góc nhìn lợi nhuận, bí mật kinh doanh thương mại của nhà đầu tư tư nhân để đi đến đối xử với hợp đồng nhượng quyền như hợp đồng dân sự, thương mại thuần túy thì tòa án sẽ không thể dựa vào điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015 để tuyên hủy giao dịch bất chính, mà giao dịch đất công tại Đà Nẵng, TP.HCM liên quan đến “Vũ nhôm” đã hé lộ các bất cập pháp lý này (Thời báo kinh tế Sài Gòn).
Tổ chức thực hiện
Đối chiếu với thực tiễn Việt Nam, các nghị định của Chính phủ đều quy định chi tiết và rõ ràng về điều kiện, thẩm quyền cũng như trình tự và thủ tục pháp lý đối với các dự án PPP. Khâu tổ chức thực hiện các dự án PPP là khâu yếu nhất do đó nảy sinh nhiều thiếu sót, tiêu cực trong quá trình thực thi dự án; trong đó khiếm khuyết lớn nhất là sự không sòng phẳng trong quan hệ công - tư, đặc trưng bởi cơ chế thanh toán không minh bạch qua thương quyền sử dụng đất mà không phải bằng tiền; còn đối với các dự án BOT là thiếu một mô hình tài chính hiệu quả và hợp lý.
Việc không đấu giá quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai đi kèm với tính thiếu minh bạch trong hoạt động quy hoạch đã làm cho các dự án BT trở nên mảnh đất màu mỡ cho móc ngoặc, tham nhũng và tiêu cực.
Với dự án BOT, mô hình tài chính luôn luôn phức tạp, là bài toán khó nhất bởi các rủi ro của đầu tư dài hạn và tính nhạy cảm về chính trị và xã hội của kết cấu hạ tầng. Do đó, khác với công thức đơn giản được áp dụng chung ở Việt Nam là một chút vốn tự có ban đầu cộng với vay thương mại, theo đó các rủi ro được chuyển hết sang ngân hàng; các nước khác đều theo mô hình tài chính dự án phức hợp. Đó là sự kết hợp hợp lý, tối ưu và linh hoạt tùy theo đặc điểm của từng dự án cụ thể giữa vốn chủ sở hữu đa dạng (chủ phát triển dự án ban đầu và chủ sở hữu công trình được cổ phần hóa) và vốn vay đa dạng (vay ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư, trái phiếu công trình, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng nhà thầu).
Tóm lại, so với thông lệ quốc tế, có thể coi một khiếm khuyết chung và căn bản cho cả hai loại hình dự án BT và BOT vừa qua là bỏ qua trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong phê duyệt và thực hiện các dự án PPP.
Các giải pháp tổ chức thực hiện:
- Ra quyết định đầu tư
Là khâu đầu tiên quan trọng nhất bảo đảm hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án. Hiện nay đang còn một số quan điểm khác nhau về quy mô đường bộ cao tốc Bắc- Nam: xây dựng đồng bộ theo hướng hiện đại với 6-10 làn xe để sử dụng lâu dài hay chỉ 4-6 làn xe như dự kiến của Chính phủ (?). Nếu không có tầm nhìn đối với sự phát triển của đất nước đến năm 2045 thì khi hoàn thành toàn tuyến vào khoảng 2025 chỉ sử dụng được khoảng 10 năm đã phải tính đến mở rộng mặt đường. Trong trường hợp xây dựng mặt đường quá rộng thì cần thêm vốn đầu tư, phải tính kỹ hiệu quả kinh tế- xã hội.
Tình trạng lãng phí đầu tư bắt nguồn từ cơ quan ra quyết định không dựa trên cách tiếp cận khoa học; chẳng hạn việc quyết định đầu tư xây dựng sân bay theo hướng mở rộng dần, đến nay cả sân bay Nội Bài và sân bay Tân Sơn Nhất đều quá tải, phải xử lý theo kiểu chắp vá.
Hy vọng quyết định đầu tư dự án đường bộ cao tốc Bắc- Nam sẽ được tiếp cận theo phương pháp hệ thống và toàn diện.
- Nguồn lực
Bố trí đủ nguồn lực cho từng dự án trên cơ sở luận chứng khả thi được xây dựng khoa học để bảo đảm thi công đúng thời hạn, có chất lượng và hiệu quả kinh tế- xã hội. Chấm dứt tình trạng chưa có đủ vốn đã triển khai dự án, hoặc điều chỉnh tăng vốn đầu tư do khi lựa chọn nhà thầu không có thực lực, bỏ thầu với giá thấp vừa kéo dài thời gian thực hiện, vừa tăng chi phí đầu tư.
- Nâng cao năng lực cơ quan đấu thầu
Các cơ quan nhà nước tham gia quá trình đấu thầu cần công khai, minh bạch thông tin, quan tâm công tác đào tạo nâng cao tính chuyên nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, năng lực thẩm định, lựa chọn nhà thầu, theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện, kịp thời phát hiện, xử lý các vấn đề nảy sinh để tháo gỡ khó khăn cho nhà thầu.
Có cơ chế hữu hiệu để các tổ chức xã hội, chuyên gia kinh tế, luật pháp, cộng đồng dân cư dân chủ tham gia quá trình thực hiện dự án PPP.
- Lựa chọn nhà thầu có năng lực
Quan trọng nhất là lựa chọn được nhà đầu tư có đủ năng lực về nhân lực, công nghệ, máy móc, thiết bị, trình độ thi công, bảo đảm chất lượng công trình và chi phí hợp lý; với tiêu chí hàng đầu là đã thực thi một số công trình giao thông đảm bảo chất lượng, thẩm mỹ, chi phí hợp lý và thời gian hoàn thành. Kiên quyết loại bỏ những nhà thầu đã vi phạm hợp đồng khi thực hiện dự án PPP.
Kết luận
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, nhiều quốc gia bao gồm các nước Châu Âu và Mỹ đối mặt với vấn đề nợ công tăng cao và quản trị công yếu kém trong khi phải giải quyết tình trạng hệ thống hạ tầng xuống cấp. Phương thức PPP đã ra đời nhằm khai thác nguồn tài chính lẫn năng lực công nghệ và quản trị tiên tiến của tư nhân, nhằm phát triển nhanh kết cấu hạ tầng có chất lượng.
Từ những năm 2000, với cách tiếp cận mới về tăng trưởng bao trùm và bền vững (inclusive and sustainable development), nhiều quốc gia đã bổ sung vào công thức PPP một thành tố mới có ý nghĩa quan trọng, đó là sự tham gia của cộng đồng: PPCP (private - public - community partnership).
Mặc dù thừa nhận tính ưu việt chung của PPP nhưng để bảo đảm trách nhiệm giải trình, trước khi triển khai một dự án PPP cụ thể, cơ quan nhà nước phải lập phương án so sánh giữa đầu tư - mua sắm công (public investment - procurement) và PPP và chỉ quyết định khi thấy rõ rằng PPP có lợi hơn. Trong quá trình xem xét có hai công cụ luôn luôn được sử dụng, đó là đánh giá tác động dự án (Project Impact Assessment) và đánh giá tính khả thi của dự án (Project Feasibility Study) do các tổ chức độc lập thực hiện.
(VNF) - Hướng tới xây dựng một cơ chế thị trường vốn dành riêng cho cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo, Việt Nam đang trong quá trình chuẩn bị để hình thành sàn giao dịch chứng khoán chuyên biệt cho doanh nghiệp khởi nghiệp - một bước đi được đánh giá là quan trọng nhằm hoàn thiện chu trình đầu tư mạo hiểm từ nguồn vốn đầu vào đến điểm thoái vốn (exit) cho nhà đầu tư.
(VNF) - Theo PGS.TS Trần Đình Thiên, tăng trưởng 10% trở lên theo Nghị quyết của Quốc hội hay một con số khác cũng được nhưng cần phải thay đổi, đừng làm theo cách cũ.
(VNF) - Theo các chuyên gia, muốn đạt tăng trưởng 10%/năm, Việt Nam cần một hệ thống tín dụng tăng tốc chưa từng có, với quy mô tín dụng dự kiến tăng gấp đôi trong 5 năm.
(VNF) - Theo TS Lê Xuân Nghĩa, nói người dân tích trữ vàng gây hại cho nền kinh tế là thiếu cơ sở. Đồng thời, không thể yêu cầu người dân “đừng mua vàng” bằng những khẩu hiệu suông.
(VNF) - TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, hiện còn quá nhiều đầu mối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vai trò chưa tương xứng, nói là chủ đạo nhưng chưa cho nhóm này phát triển. Do đó, ông Cung kiến nghị tái cơ cấu, chỉ cần dưới 100 nhưng quy mô tăng gấp 10 – 15 lần.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - Hướng tới xây dựng một cơ chế thị trường vốn dành riêng cho cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo, Việt Nam đang trong quá trình chuẩn bị để hình thành sàn giao dịch chứng khoán chuyên biệt cho doanh nghiệp khởi nghiệp - một bước đi được đánh giá là quan trọng nhằm hoàn thiện chu trình đầu tư mạo hiểm từ nguồn vốn đầu vào đến điểm thoái vốn (exit) cho nhà đầu tư.