(VNF) - Vào ngày 23/12/1913, Tổng thống Woodrow Wilson đã chính thức ký ban hành Đạo luật Dự trữ Liên bang. Cục Dự trữ Liên bang Fed chính thức ra đời. Nhưng để có được ngày này, hành trình để khai sinh Fed là cả một con đường dài.
Doanh nhân Lý Xuân Hải, cựu CEO ngân hàng ACB
Năm 1907, nền kinh tế Hoa Kỳ rơi vào khủng hoảng. Thất nghiệp tràn lan. Thị trường chứng khoán giảm sâu.
Người dân bắt đầu hoang mang. Họ xếp hàng suốt đêm để rút tiền hàng loạt ra khỏi các ngân hàng còn đủ sức chi trả. Điều này có thể giết chết nền kinh tế: các ngân hàng có đang khoẻ cũng buộc phải phải đóng cửa (chẳng có ngân hàng nào chịu nổi tình trạng rút tiền hàng loạt), các doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn tín dụng buộc phải sa thải người làm và nền kinh tế vì thế trở nên tồi tệ hơn.
Vào thời điểm đó, Chính phủ Hoa Kỳ không có cách gì để đối phó với cơn khủng hoảng tài chính ngân hàng này. Không có tổ chức nào có thể ngăn chặn việc rút tiền hàng loạt của người dân tại các ngân hàng dù vẫn khỏe mạnh. Cuối cùng sứ mệnh ngăn chặn cơn khủng hoảng tài chính ngân hàng ấy đã được lịch sử đặt lên vai một người đàn ông đầy quyền lực: John Pierpont Morgan (ông chủ của Tập đoàn JPMorgan danh tiếng).
Vào lúc 21 giờ tối thứ 7 ngày 2/11/1907 ông đã triệu tập 40-50 nhà tài chính ngân hàng hàng đầu của New York đến thư viện riêng của mình trên Đại lộ Madison và ra lệnh một cách cương quyết: họ buộc phải đóng góp vào một quỹ điều tiết chung được sử dụng để hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng trị giá 25 triệu đô la. Ông ta đã chốt chặt cửa không cho ai về và giữ họ ở đó suốt đêm cho đến tận 5 giờ sáng hôm sau mới cho về khi tất cả bọn họ đã đồng ý với kế hoạch của ông.
Kế hoạch đã thành công như ông mong đợi - chương trình hành động này về cơ bản đã chấm dứt cơn khủng hoảng tài chính ngân hàng năm 1907 của nước Mỹ. Hệ thống ngân hàng tài chính Mỹ lúc đó đã được giải cứu bởi quyền uy, cá tính mạnh mẽ và tư duy chuẩn xác chỉ của 1 con người: J.P. Morgan.
J.P. Morgan.
Rất tự nhiên sau đó giới quyền lực ở Washington đã tự hỏi: Thế lỡ xảy ra cơn khủng hoảng tài chính ngân hàng tiếp theo thì sao? Thực sự liệu họ có chấp nhận để số phận của nền kinh tế Hoa Kỳ phụ thuộc vào chỉ một anh chàng giàu có nào đó ở New York? Đó không chỉ là vấn đề tài chính ngân hàng, không chỉ là kinh tế, đó là vấn đề chính trị.
Có một người đã xác định đây là một vấn đề bức thiết cần giải quyết sớm: Thượng nghị sĩ Nelson Aldrich, Chủ tịch ủy ban tài chính Thượng viện lúc đó. Aldrich cho rằng nước Mỹ cần phải làm sao để không còn phải nhờ một cá nhân nào đó chấm dứt các cơn khủng hoảng tài chính ngân hàng: Hoa Kỳ cần có một Ngân hàng Trung ương. Và Ngân hàng Trung ương mới cần tránh đi vào vết xe đổ cũ của lịch sử.
Bản thân nước Mỹ cũng đã từng 2 lần thành lập Ngân hàng Trung ương trước đó: Ngân hàng Hoa Kỳ (US) thứ nhất (1791-1811) và Ngân hàng Hoa Kỳ (US) thứ hai (1817-1836) mỗi ngân hàng tồn tại 20 năm. Cả hai ngân hàng đều phát hành tiền, cho vay thương mại, chấp nhận tiền gửi, mua chứng khoán, duy trì nhiều chi nhánh và đóng vai trò là đại lý tài chính cho Kho bạc Mỹ.
Chính phủ Mỹ được yêu cầu mua 20% cổ phần vốn ngân hàng và bổ nhiệm 20% thành viên hội đồng quản trị của mỗi hai ngân hàng. Với vai trò này trên thực tế họ đã cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác và bị phản đối dữ dội. Do đó Tổng thống Andrew Jackson dùng quyền phủ quyết của mình chấm dứt sự tồn tại của Ngân hàng Hoa Kỳ thứ 2.
Ý tưởng về Ngân hàng trung ương với vai trò khác không phải là một sáng kiến mới. Các quốc gia châu Âu đã có ngân hàng trung ương của mình. Trong khủng hoảng, các ngân hàng trung ương về cơ bản đã làm những gì J.P. Morgan đã làm ở Hoa Kỳ: đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương mại lành mạnh. Khi những người gửi tiền xếp hàng ngoài cửa gào thét đòi rút tiền gửi của họ, các ngân hàng về cơ bản lành mạnh có thể vay tiền từ Ngân hàng Trung ương để chi trả.
Nhưng có vấn đề cần xem xét là tên gọi Ngân hàng Trung ương. Xuyên suốt lịch sử nước Mỹ, cả hai từ đó - "Trung ương" và "Ngân hàng" - cơ bản đều không được ưa chuộng. Ý nghĩ về một nhóm các chủ ngân hàng giàu có ở New York kiểm soát một Ngân hàng trung ương đầy quyền lực không tạo cảm giác tự tin, nhất là với các bài học cũ, nhất là với các chính trị gia. Trong khi đó các ngân hàng lại muốn có một tổ chức cho vay cuối cùng, ngăn chặn khủng hoảng hệ thống - nhưng họ muốn tự mình chịu trách nhiệm làm việc này hơn là để các chính trị gia với các tham vọng chính trị của mình can dự.
Aldrich nhận thức rằng ông ta cần sự trợ giúp của các ông chủ ngân hàng để phác thảo ra kế hoạch xây dựng một ngân hàng trung ương mới. Do đó ông tổ chức một cuộc gặp gỡ bàn thảo trong bí mật.
Aldrich mời một số ông chủ và nhà điều hành ngân hàng ở New York, vào một đêm đã thoả thuận trước từng người một, đi đến một nhà ga xe lửa ở New Jersey. Ở đó, họ lên một toa xe lửa tư nhân được mắc vào phía sau của một chiếc tàu lửa để đi về phía nam. Để che giấu danh tính, Aldrich yêu cầu các ông chủ ngân hàng mặc quần áo như thợ săn vịt trời và chỉ được gọi nhau bằng tên.
Tàu đi về phía Nam, các ông chủ ngân hàng, bao gồm cả Aldrich, đã cùng nhau xuống Georgia. Họ đã dành suốt 9 ngày họp kín với nhau tại một câu lạc bộ của resort mang tên Đảo Jekyll.
Tại Đảo Jekyll, dưới sự chủ trì của Aldrich, ông và các ông chủ ngân hàng đã thống nhất được kế hoạch hành động. Họ nhận thức được rằng nhiều người Mỹ sẽ quan ngại về một Ngân hàng trung ương có thể trở nên quá mạnh, quá ảnh hưởng trong nền kinh tế. Vì vậy, họ đã đưa ra một cách lách cổ điển kiểu Mỹ: Họ quyết định Hoa Kỳ nên có nhiều ngân hàng trung ương nhỏ, rải đều khắp đất nước. Số lượng các ngân hàng Dự trữ Liên bang đến ngày hôm nay là 12 và nằm rải rác đều khắp nước Mỹ tại các thành phố, các bang.
Sự lựa chọn vị trí đặt các ngân hàng này dựa trên sự đồng thuận, bao gồm cả để tranh thủ sự ủng hộ của các thủ lĩnh địa phương. Chẳng hạn cuộc bỏ phiếu về Đạo luật Dự trữ Liên bang để được Thượng viện thông qua cần lá phiếu của James A. Reed, thượng nghị sĩ từ bang Missouri. Vì thế không quá bí ẩn khi Missouri trở thành bang duy nhất có hai ngân hàng Dự trữ Liên bang, tại St. Louis và Kansas City.
Kế hoạch Aldrich và các ông chủ ngân hàng đưa ra vẫn còn một chặng đường dài phải đi để trở thành hiện thực. Chương trình này đã bị đánh tơi tả đầu tiên là tại Quốc hội. Kế hoạch xây dựng một Ngân hàng Trung ương mới cho nước Mỹ đã được tranh luận, thay đổi đáng kể, còn bị đổi cả tên. Nhưng ý tưởng cơ bản đã được triển khai thành hiện thực trên cơ sở đồng thuận, cân bằng quyền lực của giới chính trị và sự tự chủ của giới ngân hàng. Vào ngày 23/12/1913, Tổng thống Woodrow Wilson đã chính thức ký ban hành Đạo luật Dự trữ Liên bang - Cục Dự trữ Liên bang Fed ra đời.
Ban lãnh đạo đầu tiên của Fed.
Việc hình thành Fed cũng không giải quyết hết các vấn đề kinh tế của nước Mỹ. Trên thực tế, một vài thập kỷ sau khi Fed được thành lập, chính các chính sách của Fed đã khiến cuộc Đại khủng hoảng trở nên tồi tệ hơn. Bản thân Fed đã có những thay đổi đáng kể trong suốt một thế kỷ hình thành và hoạt động. Nước Mỹ đã trải qua nhiều cơn khủng hoảng tài chính ngân hàng cũng như sự thăng trầm của nền kinh tế.
Trong từng giai đoạn Fed có thể phần nào đó đã hành động sai lầm, nhưng thực tế Fed đã hoạt động khá nhịp nhàng, hiệu quả, là yếu tố cốt lõi để sửa lỗi, duy trì sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính ngân hàng và nền kinh tế Mỹ.
Gần đây nhất năm 2008, Fed đã có những hoạt động rất mạnh tay và phần nào đó nằm ngoài phạm vi hoạt động truyền thống của mình để đóng vai trò tối quan trọng trong giải quyết khủng hoảng tài chính ngân hàng tại nước Mỹ và toàn cầu. Không phải vô tình mà mỗi phát ngôn của Fed được cả thế giới lắng nghe và phân tích động thái.
Ngày nay Cục Dự trữ Liên bang có 5 nhiệm vụ. Một là, thực hiện chính sách tiền tệ: giữ giá trị đồng tiền (lạm phát) bao gồm tác động lên việc cung tiền và cấp tín dụng. Hai là, quản lý và giám sát các tổ chức tài chính ngân hàng. Ba là, cung cấp dịch vụ thanh toán. Bốn là, đóng vai trò đại lý tài chính ngân hàng cho chính phủ Hoa Kỳ. Năm là, bảo vệ người tiêu dùng và phát triển cộng đồng.
Về tổ chức, Fed gồm: Hội đồng Thống đốc gồm 7 thành viên do Tổng thống đề cử và Hạ viện thông qua với nhiệm kỳ 14 năm để đảm bảo tính độc lập, liên tục và kế thừa; 12 ngân hàng thành viên; Thị trường mở.
Hoạt động của Fed khá khoa học về cơ chế, không quá phức tạp trong vận hành, minh bạch trong ra quyết định và có thể coi là chuẩn mực cho các ngân hàng trung ương thế giới được mô tả trong hầu hết các quyển sách giáo khoa về tài chính ngân hàng.
Tổ chức quyền lực FED được ra đời và phát triển như thế.
(VNF) - Tiêu dùng của người dân chiếm gần 64% GDP đang suy yếu, kéo theo niềm tin giảm mạnh. Trong bối cảnh xuất khẩu bấp bênh, đầu tư công chậm giải ngân, các chuyên gia cảnh báo: muốn đạt tăng trưởng 10%, Việt Nam phải khơi thông túi tiền và củng cố niềm tin tiêu dùng của dân.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Các chaebol Hàn Quốc sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao trong thời kỳ phát triển công nghiệp và cao hơn đáng kể Vingroup của Việt Nam hiện nay - vốn cũng đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp.
(VNF) - Tiêu dùng của người dân chiếm gần 64% GDP đang suy yếu, kéo theo niềm tin giảm mạnh. Trong bối cảnh xuất khẩu bấp bênh, đầu tư công chậm giải ngân, các chuyên gia cảnh báo: muốn đạt tăng trưởng 10%, Việt Nam phải khơi thông túi tiền và củng cố niềm tin tiêu dùng của dân.
(VNF) - Tòa nhà chung cư FPT Plaza 4 – Khu đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng gần 1.400 căn hộ vừa được xác nhận đủ điều kiện mở bán, bổ sung nguồn cung nhà ở quy mô lớn cho khu vực này.