Giải pháp xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả
(VNF) - "Quản trị quốc gia suy cho cùng là hướng đến giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra trong điều kiện nhu cầu thì vô hạn nhưng nguồn lực thì luôn hữu hạn và môi trường biến đổi không ngừng..."
“Trong bối cảnh mà các hành vi và các mối quan hệ xã hội vận động và phát triển theo hướng cái sau mới hơn, tiến bộ hơn, hiện đại hơn cái trước đặt ra thách thức cho nhà quản trị phải có công cụ và phương pháp quản trị hiện đại, phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội. Khoa học - công nghệ được xem là chìa khóa, giữ vai trò then chốt cho sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.
Để đạt được mục tiêu trên, quản trị quốc gia trước hết cần sự thống nhất nhận thức đổi mới tư duy về xây dựng quốc gia số thực chất là cuộc cách mạng về thể chế để nâng cao năng suất và chất lượng, hiệu quả quản trị điều hành kinh tế - xã hội trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Muốn vậy, cần tập trung vào hoàn thiện thể chế pháp lý cho việc vận hành chính phủ số, quốc gia số; nâng cao năng lực của bộ máy và đội ngũ công quyền; xây dựng nền tảng hạ tầng số quốc gia; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quản trị quốc gia và đẩy mạnh phát triển ứng dụng công nghệ số vào cung cấp dịch vụ cho chính quyền, người dân, doanh nghiệp.
Hiệu quả là các kết quả, lợi ích đạt được khi đặt trong mối tương quan so sánh giữa chi phí và mục tiêu định trước. Quản trị quốc gia hiệu quả thực chất là việc giải quyết, đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của xã hội với chi phí thấp nhất, nhưng mục tiêu đạt được cao nhất. Đo lường hiệu quả quản trị quốc gia xét trên tổng thể các phương diện. Về kinh tế, là sự phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế thông qua các chỉ số phản ánh: Sự tăng trưởng, phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người...
Về xã hội, là việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế - xã hội để bảo đảm an sinh xã hội, tăng thu nhập cho người dân, tăng tỷ lệ việc làm, gia tăng các phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống, sự hài lòng, hạnh phúc của người dân… Về chính trị, là năng lực, trình độ huy động mọi nguồn lực quốc gia để thực hiện các quyết sách chính trị, củng cố niềm tin, gia tăng đồng tình, ủng hộ của người dân và xã hội vào sự lãnh đạo của bộ máy công quyền.
Để xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tập trung vào các giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức của mọi chủ thể trong xã hội về khát vọng phát triển quốc gia.
Cần nâng cao nhận thức và hành động của triệu người như một, mọi chủ thể trong xã hội cùng chung niềm tự hào, tự tôn dân tộc cùng chung khát vọng, mục tiêu chiến lược phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu… đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao”
Thống nhất được khát vọng, tầm nhìn phát triển của dân tộc sẽ thay đổi nhận thức và hành động của các chủ thể, là cơ sở để đoàn kết mọi lực lượng trong xã hội, vượt lên sự khác biệt, khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp, vượt qua khó khăn, thử thách, tận dụng thời cơ, vận hội, chung tay xây dựng quốc gia hùng cường, xã hội phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong tình mới.
Bước vào thời kỳ mới với những tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của tình hình trong nước, quốc tế diễn biến nhanh và khó lường, Đảng ta phải giải quyết một loạt các vấn đề để vừa phát huy vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vừa phát huy vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước theo luật định.
Cùng với đó, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cũng như thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức đảng với người đứng đầu cơ quan nhà nước cũng phải rõ ràng, rành mạnh. Tổ chức bộ máy của các cơ quan đảng cũng phải được thiết kế, tổ chức một cách tinh gọn nhất, tránh chồng chéo, hoặc song trùng quyền lực giữa cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật kiến tạo phát triển.
Để xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, Việt Nam cần tập trung vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế theo hướng dân chủ, pháp quyền, kiến tạo sự phát triển theo đúng quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cần có sự đột phá về tư duy để giải quyết bài toán thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Muốn vậy, trước hết cần đổi mới tư duy trong xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng:
- Trong kỷ nguyên mới, thể chế, chính sách, pháp luật là động lực, là nguồn lực kiến tạo cho sự phát triển. Chính sách, pháp luật được ban hành là để giải quyết các vấn đề gắn liền với yêu cầu, đòi hỏi phát sinh từ thực tiễn. Thể chế, chính sách là nguồn lực kiến tạo sự phát triển. Do đó, phải áp dụng cách tiếp cận thực tế và thực tiễn trong xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật; bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, giải đáp các vướng mắc của cuộc sống và tìm ra con đường phát triển từ thực tiễn. Chủ động trong nghiên cứu, xây dựng chính sách, pháp luật cho những vấn đề mới, xu hướng mới để tạo hành lang pháp lý cho sự vận hành nền kinh tế số, xã hội số, chính phủ số, quốc gia số.
Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật cần dịch chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển. Dịch chuyển từ tư duy “chọn cho” sang tư duy “chọn bỏ” trong hoạch định, thực thi chính sách, pháp luật; để chấm dứt tư duy “xin - cho”, cung cấp kiểu ban ơn, dễ phát sinh những nhũng nhiễu, tiêu cực trong hoạt động của cơ quan công quyền sang tư duy “yêu cầu - đáp ứng” hướng tới sự cung cấp dịch vụ, đáp ứng sự hài lòng và thúc đẩy quan hệ hợp tác, chia sẻ giữa các chủ thể. Khi xây dựng chính sách, pháp luật quán triệt quan điểm thay đổi cách tiếp cận từ đặt nặng vào quy định xác lập “nghĩa vụ” sang chú trọng thiết lập quy định “bảo vệ và bảo đảm quyền” của các bên liên quan.
- Thể chế, chính sách, pháp luật hướng tới sự hạnh phúc của nhân dân: Hạnh phúc là giá trị văn hóa cao nhất, là mục tiêu, khát vọng mong đợi mà mỗi quốc gia muốn đem lại cho mọi người dân trong quá trình tổ chức và thực thi chính sách. Chỉ số hạnh phúc của người dân, của quốc gia là “dự báo” cho sự phát triển toàn diện, bền vững của mỗi quốc gia.
Từ việc chỉ chú trọng vào các chỉ số phát triển kinh tế, giờ đây khi tiếp cận hạnh phúc trong phân tích chính sách, pháp luật, Nhà nước sẽ đặt các chỉ tiêu kinh tế trong mối tương quan với các tiêu chí về an toàn, an lành, sự thân thiện, nhân văn, những trải nghiệm và cảm xúc tích cực bên trong của từng cá nhân trong xã hội. Cách tiếp cận hạnh phúc phải được thể hiện cả ở giai đoạn xây dựng, hoàn thiện; tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách, pháp luật. Vì vậy, những nhà quản lý, lãnh đạo quốc gia sẽ có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong việc đưa ra những quyết sách điều hành đất nước.
- Thể chế, chính sách, pháp luật thiết lập và vận hành bộ máy trong hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả: Tái cấu trúc tổng thể bộ máy trong toàn hệ thống chính trị theo đúng tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” nhằm mục tiêu cao nhất là tối đa hóa giá trị tạo ra và nâng cao chất lượng phục vụ người dân.
Thiết kế và vận hành bộ máy trong hệ thống chính trị dựa trên nguyên tắc khoa học tổ chức, phù hợp thực tiễn, và bảo đảm hiệu năng tối ưu của toàn hệ thống. Đặc biệt, việc thiết kế phải bảo đảm mỗi tổ chức công trong hệ thống được đặt đúng vị trí, đúng vai trò và đúng chức năng, để bộ máy công quyền thật sự là một cỗ máy tạo ra giá trị, kiến tạo sự phát triển bền vững của quốc gia.
Bốn là, nâng cao năng lực và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, không chỉ có năng lực chuyên môn cao, mà còn phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, thể hiện trách nhiệm giải trình trước người dân và xã hội. Nền công vụ được vận hành bởi đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài.
Thực hiện đánh giá cán bộ, công chức dựa trên kết quả công việc thông qua các chỉ số đo lường và thực chất. Kiên quyết đưa ra khỏi nền công vụ những người không làm được việc. Đội ngũ cán bộ, công chức trong nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả phải thực sự là tầng lớp tinh hoa, ưu tú của xã hội để quản trị xã hội. Có chính sách tiền lương, tạo động lực làm việc, để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác, phát huy giá trị xã hội của nghề công chức, luôn toàn tâm, toàn ý cho lý tưởng, khát vọng “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Năm là, tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.
Trước hết, cần phát triển và ứng dụng các nền tảng số dùng chung, bảo đảm kết nối liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quy trình làm việc, quản lý dữ liệu, cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình ở mức độ cao, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Việc khai thác trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và các công nghệ tiên tiến sẽ giúp nâng cao năng lực phân tích, dự báo, hỗ trợ ra quyết định nhanh chóng, kịp thời. Song song đó, cần bảo đảm an ninh mạng, an toàn dữ liệu quốc gia và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực số, thành thạo về kỹ năng số. Đây là bước đi chiến lược để nền quản trị quốc gia thích ứng nhanh với bối cảnh chuyển đổi số, đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại và phát triển bền vững.
Sáu là, huy động sự tham gia của các chủ thể vào quản trị quốc gia.
Huy động được mọi nguồn lực, mọi chủ thể trong xã hội tham gia vào quản trị quốc gia là chìa khóa để tối đa hóa sức mạnh tổng hợp của xã hội, thúc đẩy quản trị hiệu quả, bền vững. Để thực hiện điều này, cần xây dựng cơ chế pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức xã hội và các đoàn thể tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách.
Cùng với đó, đẩy mạnh công khai, minh bạch thông tin, khuyến khích vai trò giám sát của xã hội; từ đó, gia tăng sự đồng thuận và trách nhiệm chung. Mỗi chủ thể trong xã hội theo vai trò, chức năng của mình cùng nỗ lực tối đa đóng góp giá trị cho sự phát triển quốc gia theo phương thức: Xã hội cung cấp nguồn lực, thị trường phân bổ nguồn lực, Nhà nước kiến tạo thể chế và điều tiết nguồn lực hợp lý. Mọi chủ thể đồng lòng, chung sức sẽ tạo nền tảng vững chắc cho khát vọng phát triển quốc gia, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu đổi mới ở Việt Nam.
Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả và linh hoạt không chỉ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, mà còn là nền móng để hiện thực hóa khát vọng phát triển của Việt Nam. Những giải pháp được đề xuất, từ nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đến hoàn thiện thể chế pháp quyền và ứng dụng công nghệ số, là các trụ cột giúp xây dựng một hệ thống quản trị minh bạch, trách nhiệm và đổi mới, đáp ứng nhu cầu của người dân và tạo động lực phát triển bền vững. Với sự đoàn kết của toàn dân và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Việt Nam sẽ vững bước trở thành quốc gia phát triển, sánh vai cùng các cường quốc năm châu vào năm 2045”.
Tìm những người xứng đáng để xây dựng thể chế cho Kỷ nguyên mới
- 'Đại hội XIV là điểm khởi đầu để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới' 15/11/2024 04:36
- Doanh nghiệp tư nhân trước kỷ nguyên vươn mình của dân tộc 13/10/2024 06:30
- Doanh nhân là trụ cột trong kỷ nguyên vươn mình 13/10/2024 03:30
Toàn cảnh công trường cầu 2.300 tỷ nối Đảo Vũ Yên vào nội đô Hải Phòng
(VNF) - Cầu Máy Chai (Cầu Hoàng Gia) nối khu đô thị trên đảo Vũ Yên và quận Ngô Quyền với tổng vốn đầu tư hơn 2.300 tỷ đồng