Chuyên gia: 'Cần luật riêng để thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường nước sạch'
Trang Huyền -
31/05/2022 08:27 (GMT+7)
(VNF) - Trao đổi với Tạp chí Đầu tư Tài chính, ông Nguyễn Quang Đồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) cho rằng Việt Nam đang thiếu khung pháp lý cho thị trường nước sạch, điều này tạo ra nhiều mâu thuẫn, nghịch lý.
Ông Nguyễn Quang Đồng
Ông Đồng nhấn mạnh tình trạng “tranh tối, tranh sáng” khiến thị trường nước sạch khó phát triển, tạo ra rủi ro các nhóm “trục lợi chính sách” cạnh tranh không lành mạnh.
- Ông có thể nói rõ hơn về điều này?
Ông Nguyễn Quang Đồng: Tầm quan trọng của nước sạch cho sức khoẻ, cho sinh hoạt hàng ngày thì đã quá rõ ràng. Cũng vì thế Liên hiệp quốc và các quốc gia đều coi có nước sạch để dùng là quyền cơ bản của công dân và nhà nước có nghiã vụ phải đảm bảo cho người dân các quyền đó. Và lưu ý, nước sạch có nghĩa là nước đã qua xử lý, đạt tiêu chuẩn y tế - tức có thể hiểu nước sạch là nước máy.
Việt Nam cũng đã đặt ra mục tiêu đến năm 2025 là 95% - 100% người dân thành thị và 93% - 95% người dân ở nông thôn có nước sạch để dùng. Nhưng tôi nghĩ, khả năng cao là Việt Nam sẽ “lỡ hẹn” mục tiêu này. Theo báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ hộ dân được tiếp cận nước máy chỉ chiếm 52%. Đặc biệt, tỷ lệ này ở nông thôn chỉ đạt gần 35%, chênh lệch lớn với thành thị đang ở mức hơn 84%.
- Nguyên nhân đến từ đâu, thưa ông?
Vì sao một đất nước có tài nguyên nước dồi dào, sông hồ đa dạng trên cả nước mà tỷ lệ người dân dùng nước máy thấp như vậy? Tôi cho rằng nguyên nhân chính đến từ tổ chức và vận hành thị trường nước sạch.
Nước máy là một hàng hoá - là hàng hóa công đặc biệt. Thị trường cần có nguyên tắc riêng; có quy định rõ cho các khâu từ sản xuất nước, phân phối đến bán lẻ; và cần có sự tham gia của tư nhân. Nhưng hiện nay, ở nhiều địa phương, thiết kế và vận hành thị trường rất lộn xộn, không bảo vệ được quyền lợi của nhà đầu tư tư nhân lẫn người tiêu dùng. Hà Nội là tiêu biểu. Bởi một loạt những bất ổn của thị trường nước sạch, mà Thủ đô - nơi có mạng lưới sông ngòi dày đặc bao quanh nhưng mới chỉ có xấp xỉ 35% người dân ngoại thành được dung nước máy.
- Cụ thể, những vấn đề nào chưa được xử lý ở thời điểm hiện tại?
Trước tiên, trong khi nhà nước thiếu nguồn lực đầu tư, tiến trình xã hội hóa dịch vụ công nước sạch đang không đi kèm với một cấu trúc thị trường cung cấp hợp lý. Việt Nam cho phép tư nhân tham gia vào thị trường nhưng chưa phân định rõ ràng giữa công - tư tạo ra nhiều mâu thuẫn, khiến doanh nghiệp e ngại đầu tư.
Ví dụ, theo quy định, tư nhân được sản xuất, cung cấp nước sạch nhưng để nước đến với hộ dân, cần có đường ống. Tại những khu vực chưa có hệ thống đường ống, chủ yếu là khu vực nông thôn, người dân muốn dùng nước phải đóng tiền xây dựng cho đơn vị cấp nước. Vậy, câu hỏi đặt ra ở đây là vai trò của nhà nước, tư nhân trong cung cấp dịch vụ cấp nước tại đây là gì? Người dân khi tham gia đóng góp vào xây dựng đường ống sẽ có thêm những quyền lợi gì trong khi bản chất nhà nước phải đảm bảo quyền tiếp cận cho họ?.
- Với tình huống đó, liệu có nên chỉ cho phép tư nhân tham gia vào khâu cấp nước, còn khâu phân phối, bán lẻ do nhà nước độc quyền quản lý? Còn nếu khâu phân phối thuộc về nhà nước, trong bối cảnh ngân sách thiếu hụt, chúng ta cần cơ chế đầu tư đối tác công tư PPP nào để huy động tư nhân đầu tư vào đường ống?
Trước đây, do tính nhạy cảm của mặt hàng nước sạch, nhiều đại biểu Quốc hội hồi 2019 từng đề xuất đây phải là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Điều này đặt trong bối cảnh xuất hiện việc nhà đầu tư ngoại mua, nắm giữ cổ phần tại các công ty tư nhân cung cấp nước cũng như sự cố nhiễm dầu thải của Công ty Nước sạch sông Đà. Đề xuất này tiếp tục được các hiệp hội liên quan nhắc lại vào năm 2020, tuy nhiên, đến nay vấn đề này vẫn đang bị bỏ ngỏ. Hiện chỉ có Nghị định 117 điều chỉnh trực tiếp vấn đề quản lý, cung cấp, khai thác nguồn nước.
Thứ hai là vấn đề về giá cả. Tại 63 tỉnh thành đang có 63 biểu giá nước sạch khác nhau. Nước sạch do Bộ Tài chính quy định khung giá, phương thức tính và lợi nhuận định mức. Các tỉnh căn cứ vào điều kiện của từng địa phương để quyết định biểu giá cụ thể nhưng không vượt quá khung của Bộ. Công ty nước sạch quyết định giá bán nhưng phải nằm trong biểu giá của tỉnh. Đa số tỉnh quyết định mức giá bình quân đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất và có lợi nhuận tối thiểu 5%.
Thực tế, cũng có tỉnh áp giá nước thấp hơn chi phí sản xuất. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, giá nước sạch tại địa phương là khác nhau do các yếu tố cấu thành giá bán nước sạch như chi phí vật tư trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi phí quản lý doanh nghiệp... là không giống nhau ở các địa phương.
Khảo sát của IPS cho biết, nhiều doanh nghiệp trong ngành cho rằng mức giá bán lẻ nước, đặc biệt nước sinh hoạt, thấp. Tại nhiều địa phương, mức giá này ít được điều chỉnh. Đơn cử tại Hà Nội, khung giá này gần 10 năm qua vẫn giữ nguyên.
- Thực tế đó đã và đang đặt ra những vấn đề chính sách lớn nào cần phải giải quyết?
Thực tế này đặt ra 6 vấn đề chính sách lớn cần giải quyết. Thứ nhất, ai sẽ là người chịu trách nhiệm chính trong việc cung cấp thứ hàng hoá công thiết yếu này nếu như quá trình cung cấp nước cho người dân xảy ra vấn đề như vụ nước sạch sông Đà cách đây vài năm?
Thứ hai, với quá trình tái cấu trúc thị trường nước sạch bằng cách để tư nhân tham gia vào dịch vụ cung cấp nước sạch thì tư nhân sẽ tham gia vào những khâu nào, những công đoạn nào?
Thứ ba, với cơ chế PPP, trong cung cấp nước sạch, vấn đề doanh nghiệp tư nhân có được tham gia vào việc xây dựng mạng lưới (hệ thống đường ống) cấp nước/thoát nước thải sinh hoạt hay không vẫn còn nhiều tranh cãi và cho đến bây giờ tư nhân vẫn chưa được tham gia vào công đoạn này.
Thứ tư, vấn đề xây dựng cơ chế giá và lợi nhuận cho ngành cũng là vấn đề lớn cần quan tâm. Cần có quy định về biên độ lợi nhuận bắt buộc để doanh nghiệp yên tâm tham gia vào thị trường. Và khi đã ký hợp đồng giữa nhà nước - tư nhân thì nhà nước phải có nghĩa vụ tuân thủ hợp đồng (khối lượng nước được mua; giá cả) hoặc đền bù thiệt hại cho doanh nghiệp nếu vi phạm.
Thứ năm là vấn đề quy hoạch và điều phối liên vùng. Hiện nay, vai trò tổ chức, vận hành, điều tiết thị trường được giao về riêng rẽ cho từng địa phương. Nhưng các địa phương không có cơ chế phối hợp với nhau. Điều này gây khó khăn khi doanh nghiệp muốn cung cấp dịch vụ nước sạch sang một tỉnh lân cận. Việc không điều phối cũng dẫn đến chồng lấn quy hoạch, làm thị trường vận hành thiếu hiệu quả.
Thứ sáu là vấn đề cơ quan điều tiết thị trường. Giống như điện lực, cần có một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thống nhất; tránh tình trạng 6 bộ cùng quản lý phân mảnh như hiện nay.
- Nhưng chúng ta cũng đã và đang kêu gọi tư nhân tham gia vào trong lĩnh vực này? Liệu chỉ tư nhân tham gia vào đã đủ để hoá giải những mâu thuẫn như ông nói chưa?
Xã hội hoá dịch vụ nước sạch bằng cách để tư nhân tham gia vào lĩnh vực này là cần thiết. Tuy nhiên, cũng xin được nhấn mạnh thêm rằng, tiến trình xã hội hóa dịch vụ công nước sạch đã không đi kèm với việc xây dựng một cấu trúc thị trường cung cấp dịch vụ nước sạch hợp lý, trong khi nhà nước thiếu nguồn lực đầu tư thì đồng thời thị trường vẫn không thu hút hiệu quả đầu tư của tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân gặp rủi ro cao khi tham gia thị trường, ví dụ như giá, khối lượng nước được mua dưới công suất. Doanh nghiệp nhà nước cũng khó khăn khi giá nước thấp, không đủ khả năng mở rộng diện tích cấp nước. Tình trạng “tranh tối, tranh sáng” khiến thị trường khó phát triển, tạo ra rủi ro các nhóm “trục lợi chính sách” cạnh tranh không lành mạnh”. Do đó về lâu dài cần những giải pháp căn cơ hơn cho vấn đề này.
Ông cho rằng giải pháp căn cơ của vấn đề này là gì?
Cần có đánh giá toàn diện và thiết kế một hệ thống chính sách tổng thể để hoàn chỉnh thị trường kinh doanh nước sạch; cần tiếp cận đây là dịch vụ công thiết yếu, nước sạch là hàng hoá công hoặc bán công. Và khi đã là hàng hoá thì phải có thị trường bài bản, hệ thống. Tiến trình này nên gắn liền với việc xây dựng Luật về cấp nước và xử lý nước mà Chính phủ đã yêu cầu và Bộ Xây dựng đang triển khai. Chính phủ cần nhanh chóng vào cuộc để thúc đẩy luật này.
Việt Nam đang đô thị hoá rất nhanh; nếu không có luật lệ rõ ràng thì người dân vừa thiếu nước mà việc cung cấp nước cũng không hiệu quả.
(VNF) - Theo PGS. TS. Trần Đình Thiên, việc lấn biển phải đặt trong câu chuyện muốn phát triển thì phải đánh đổi. Định hướng lấn biển để có không gian phát triển phải nghĩ một cách tích cực, đừng để mất cơ hội của Đà Nẵng và cũng là cơ hội của đất nước.
(VNF) - Theo đánh giá của các chuyên gia, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP là 8%, thì tăng trưởng tín dụng 16% là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, mục tiêu này có đạt được hay không phải dựa trên khả năng hấp thụ vốn của thị trường.
(VNF) - Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% trở lên trong năm 2025, GS.TSKH Nguyễn Mại cho rằng cần phải lưu ý đến tình hình sản xuất, mở rộng, nâng cao năng lực của doanh nghiệp.
(VNF) - “Cuộc cách mạng” tinh gọn bộ máy được đánh giá sẽ tạo ra những thay đổi quan trọng trong cơ cấu thu – chi ngân sách, thúc đẩy sự chuyển động nhanh, mạnh, hiệu quả của bộ máy hành chính, mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế trong dài hạn.
(VNF) - Để tạo được đột phá trong cải cách thể chế, Luật sư Nguyễn Tiến Lập, trọng tài viên Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam, cho rằng phải từ bỏ được tư duy không quản được thì cấm.
(VNF) - Trong nền kinh tế có chế độ tỷ giá tương đối cố định như Việt Nam, chính sách tiền tệ sẽ ít hiệu quả hơn so với chính sách tài khóa, vì vậy trong ngắn hạn, đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn đầu tư công hiệu quả sẽ mang lại tác động tích cực hơn.
(VNF) - PGS-TS Trần Đình Thiên - Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao cần cách tiếp cận khác thường. Theo đó, để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu và hướng đi trong năm 2025 là tập trung phát triển kinh tế số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) và kinh tế xanh.
(VNF) - Ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Quản lý Quỹ VCBF cho biết:
Trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, thực tế đầu tư tư nhân mới chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong những năm gần đây, đầu tư tư nhân tăng trưởng rất chậm, năm 2023 là gần 3% năm 2024 là khoảng 8 - 9%, thấp hơn mức tăng trưởng trung bình 15% của các năm trước dịch.
(VNF) - Về quyết định Mỹ áp thuế 25% với mặt hàng sắt thép của tất cả các nước, một số doanh nghiệp sắt thép khẳng định khi các doanh nghiệp ở các nước khác cũng chịu cùng chung mức thuế như Việt Nam khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt sẽ cao hơn.
(VNF) - Trong những năm qua, chúng ta thường tiếp cận với thông tin rằng tăng trưởng GDP của Việt Nam chủ yếu dựa vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), còn doanh nghiệp tư nhân trong nước chỉ đóng góp rất ít, thậm chí chỉ chiếm 10% GDP. Tuy nhiên, thông tin này không chính xác và đã trở nên lạc hậu, theo chia sẻ của doanh nhân Đỗ Cao Bảo, thành viên HĐQT tập đoàn FPT.
(VNF) - Ông Phan Đức Hiếu - Uỷ viên thường trực, Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội khẳng định, nếu chúng ta phát huy được năng lực của doanh nghiệp nội địa cũng như nguồn lực trong nước thì sự phát triển sẽ bền vững và lâu dài hơn.
(VNF) - Khi nhu cầu đầu tư và tích trữ vàng của người dân vẫn duy trì ở mức cao, thị trường vàng trở nên sôi động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều biến động. Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp quản lý hiệu quả không chỉ giúp ổn định thị trường mà còn góp phần đảm bảo sự minh bạch, hạn chế rủi ro và bảo vệ quyền lợi của người dân.
(VNF) - Để có được mức tăng trưởng 8% cho 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số, Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI khẳng định: Thể chế là yếu tố mang tính quyết định việc chúng ta tiến hay lùi và vươn mình đến đâu.
(VNF) - Để nền kinh tế có thể đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số nếu có điều kiện thuận lợi, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP. HCM cho rằng, chúng ta cần thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt và theo diễn biến của thị trường, kèm theo đó là cần có những công cụ dự báo tốt, việc điều hành chính sách mang tính kịp thời hơn, tránh trường hợp sự việc đã xảy ra chúng ta mới tìm cách ứng phó thì sẽ không kịp bởi chính sách tiền tệ thường có độ trễ.
(VNF) - Về mục tiêu tăng trưởng 8%, thậm chí đạt hai con số nếu điều kiện thuận lợi, trao đổi với Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định, đây là mục tiêu cao, nhiều thách thức nhưng có thể đạt được và cần quyết tâm đạt được để tạo đà tăng trưởng bứt phá cho kỷ nguyên phát triển mới.
(VNF) - Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% cho 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số trong dài hạn. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động khó dự đoán, những khó khăn và thách thức trong nước vẫn khó đoán định thì việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng như trên dường như không phải dễ dàng.
(VNF) - PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân (Đại học Kinh tế TP. HCM) cho rằng câu chuyện của năm sau sẽ là sự đánh đổi giữa lãi suất và tỷ giá. Nếu muốn giảm lãi suất, Chính phủ phải hy sinh tỷ giá và ngược lại.
(VNF) - Để duy trì đà tăng trưởng trong năm 2025, việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với sự kết hợp cân bằng hơn giữa các chính sách tiền tệ và tài khóa là điều cần thiết. Trong thời gian tới, các chính sách phối hợp là rất quan trọng để hỗ trợ phục hồi kinh tế.
(VNF) - Trong bối cảnh nền kinh tế quốc dân còn nhiều khó khăn phía trước, kinh tế thế giới có nhiều biến động khó đoán, các động lực tăng trưởng cũ đã cạn, thì doanh nghiệp tư nhân được xem là sự kỳ
vọng của nền kinh tế. Bởi vậy, đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh là điều
hết sức quan trọng để doanh nghiệp tư nhân phát huy tối đa tiềm lực và phát triển mạnh mẽ.
(VNF) - Trong một thế giới VUCA (Biến động – Không chắc chắn – Phức tạp – Mơ hồ) thì có một điều ngày càng trở nên rõ ràng hơn là vai trò và vị thế không ngừng gia tăng của Việt Nam. Việc trở thành đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ cùng với đó là sự nâng cấp mối quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia lớn đã đưa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế gia tăng và mở ra những vận hội mới cho đất nước.
(VNF) - Nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025, ông Norman Lim - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam (SingCham Việt Nam) đã chia sẻ với Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance về những triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm mới với những yếu tố định hình tăng trưởng bền vững.
(VNF) - Trao đổi cùng Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương, khẳng định chính hệ thống pháp luật hiện nay là
“thủ phạm” khiến chúng ta tự trói buộc chính mình, kìm hãm sự phát triển. Ông cho rằng nếu khơi thông điểm nghẽn này thì việc kinh tế Việt Nam tăng trưởng hai con số là điều hoàn toàn có thể đạt được.
(VNF) - Giám đốc Quốc gia, Viện Tony Blair tại Việt Nam cho rằng, nền tảng thiết yếu để một Trung tâm tài chính quốc tế thành công là ở thiết kế thể chế.
(VNF) - TS Phạm Hùng Tiến - Chuyên gia về đầu tư FDI chỉ ra rằng, các tỉnh Phía Bắc có giá trị xuất khẩu thuộc nhóm dẫn đầu cả nước nhưng lại nằm ngoài nhóm 10 thu ngân sách lớn. Điều này phần nào cho thấy, phần nhận được từ các "kỳ tích" xuất khẩu mà doanh nghiệp FDI mang lại là không tương xứng, thậm chí là rất ít.
(VNF) - Chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành khẳng định, các tập đoàn lớn trên thế giới đang bắt tay tạo ra những 'game' mới và điều ngại là liệu các doanh nghiệp Việt có đủ năng lực để ứng xử với những 'gã khổng lồ', các tập đoàn đa quốc gia hay không chứ chưa nói đến câu chuyện vốn hay công nghệ.
(VNF) - Theo PGS. TS. Trần Đình Thiên, việc lấn biển phải đặt trong câu chuyện muốn phát triển thì phải đánh đổi. Định hướng lấn biển để có không gian phát triển phải nghĩ một cách tích cực, đừng để mất cơ hội của Đà Nẵng và cũng là cơ hội của đất nước.